[/size]
[size=4](chữ Hán :易筋經; nghĩa là "cuốn kinh chỉ phép co duỗi gân"), có nơi gọi là Dịch cân tẩy tủy kinh hay Đạt Ma dịch cân kinh, là một cuốn sách võ thuật dạy cách thổ nạp chân khí, nhằm cường thân kiện thể, trường sinh.[/size]
[size=4]Dịch Cân Kinh và Tẩy Tủy Kinh là hai loại bí kíp khác nhau. Dịch Cân Kinh là một bí kíp chỉ dẫn cách vận khí nhằm cường thân kiện thể và trường sinh bất lão. Tẩy Tủy Kinh thì chỉ dẫn cách vận khí để trị nội thương. Hai cuốn bí kíp này được tin rằng do một vị sư của Ấn Độ, Đạt Ma Tổ Sư, soạn ra và để trong Tàng Kinh Các của Thiếu Lâm Tự. Nghe nói sau này, cuốn Tẩy Tủy Kinh bị thất truyền và không còn ai biết nó nằm ở đâu.[/size]
[size=4]phát này đọc đau mắt đó 3ahhyes3
[/size]
[size=4]
[/size]
Xem thêm Thiếu Lâm quyền
[size=4]Võ Thiếu Lâm[/size]
[size=4]Thiếu Lâm thất thập nhị huyền công, Thất thập nhị huyền công niên tuyệt kĩ, hay 72 tuyệt kĩ Thiếu Lâm, 72 công phu Thiếu Lâm Tự, Thiếu Lâm Thất Thập Nhị Nghệ là số lượng các tuyệt kĩ được các võ sư nhiều đời của Thiếu Lâm tự đúc kết, tinh lọc, tổng hợp và phân loại, theo đó hệ thống võ học Thiếu Lâm phái hay Thiếu Lâm danh gia dù có phương pháp luyện tập đặc biệt nào cũng không ra ngoài 72 tuyệt kĩ này.[/size]
[size=4]Con số 72 (Địa sát) trong lí luận Triết học Trung Hoa là bội số của số 9, cũng như con số 36 (Thiên cương) hay 108 là tổng hợp của cả 72 và 36, được sử dụng trong nhiều hệ thống võ học khác nhau nhằm xác định số lượng đòn thế, chiêu thức trong một bài sáo lộ (quyền thảo, binh khí) hay các đòn thế tuyệt kĩ. Bởi vậy, trong thực tế thất thập nhị huyền công cũng có thể được chỉ một hệ thống khác hẳn, như hệ thống các phép biến hóa của nhân vật huyền thoại Tôn Ngộ Không trong Tây du kí, hay sử dụng để chỉ 72 thế công thủ phản biến trong Thập bát La Hán quyền của môn phái do võ sư Đoàn Tâm Ảnh Việt Nam giảng dạy, là các chiêu thức giúp các võ sinh tự vệ một cách hữu hiệu. Chính vì sự đa dạng của thuật ngữ như vậy, khi bàn về hệ thống thất nhập nhị huyền công với tư cách là những công phu của Thiếu Lâm tự, người ta thường gọi cụ thể bằng chữ "Thiếu Lâm thất thập nhị huyền công", hay "72 tuyệt kĩ Thiếu Lâm tự".[/size]
[size=4]Trong lịch sử võ thuật Thiếu Lâm (Tung Sơn, Hà Nam) tương truyền rằng vào thời Tống Mạt Nguyên Sơ có nhà sư Giác Viễn Thượng Nhân (觉远上人) đã từ bài quyền La Hán Thập Bát ThủThiếu Lâm thất thập nhị quyền pháp (người Trung Hoa dịch sang tiếng Anh là 72 Types of Shaolin) là 72 thế quyền căn bản của Thiếu Lâm.[/size] (羅漢十八 手) nghĩa là 18 thế tay của phật A-la hán chế tác ra
[size=4]Không nên lầm lẫn Thiếu Lâm thất thập nhị huyền công (người Trung Hoa dịch sang tiếng Anh là 72 Arst of Shaolin) với Thiếu Lâm thất thập nhị quyền pháp do Giác Viễn sáng tác.[/size]
[size=4]Cũng nên lưu ý rằng trong võ Thiếu Lâm không hề có thập bát La Hán quyền (18 đường La Hán quyền) như đã được truyền tụng lâu nay trong giới võ thuật tại Trung Hoa và các nước Đông Á mà chỉ có bài quyền La Hán Thập Bát Thủ (羅漢十八 手) tương truyền từ Đạt Ma và La Hán quyền (羅漢拳) mà thôi.[/size]
[size=4]Bài thập bát La Hán quyền chỉ có ở Việt Nam do võ sư Đoàn Tâm Ảnh (tức bác Sáu) sáng tác vào những năm thập kỉ 1960 và đây không phải là bài quyền chính thống trong môn võ Thiếu Lâm xưa nay
[/size]
[size=4]
[/size]
[size=4]Thắng Man kinh (zh. shèngmán jīng 勝鬘經, ja. shōmangyō, sa. śrīmālādevī-sūtra) là tên gọi ngắn của Thắng Man sư tử hống nhất thừa đại phương tiện phương quảng kinhśrīmālādevī-siṃhanādavaipulyasūtra), là một bộ kinh Đại thừa, được hai vị Cao tăng Ấn Độ dịch sang Hán văn. Bản thứ nhất của Cầu-na-bạt-đà-la (zh. 求那跋陀羅, sa. guṇabhadra), được dịch đời Lưu Tống (tk. 5, ~ 435-443) dưới tên trên. Bản thứ hai được Bồ-đề-lưu-chi (sa. bodhruci) dịch (~ 508-535) dưới tên Thắng Man phu nhân hội, bởi vì kinh này cũng là một phần của bộ kinh Đại bảo tích, hội 48. Một bản dịch cũ của kinh nầy có tên Phu nhân kinh (zh. 夫人經). ([/size]
[size=4]Kinh này tương đối ngắn, bao gồm 15 phẩm. Phẩm thứ nhất nói về đức tính chân thật của Như Lai và sự việc công chúa Thắng Man được Phật thụ kí. Phẩm 2–4 nói về việc phát triển Bồ-đề tâm. Nội dung của phẩm thứ 5–15 có thể gọi chung là “nhập Như Lai tạng” nói về việc xác quyết Nhất thừa (sa. ekayāna), về Như Lai tạng (sa. tathagātagarbha), Pháp thân (sa. dharmakāya), bản tính thanh tịnh. Vì bản chất nội dung, kinh thường được bàn luận và so sánh với các kinh luận như Bảo tính luận, Nhập Lăng-già (sa. laṅkāvatāra-sūtra), Đại thừa khởi tín luận (大 乘 起 信 論)… Kinh này đã được Wayman dịch sang Anh ngữ năm 1974.[/size]
[size=4]Công chúa Thắng Man, nhân vật chính trong kinh này có quan điểm rằng, Phật chỉ vì Đại thừa thuyết pháp và pháp này bao gồm tất cả ba cỗ xe (Ba thừa). Thắng Man nêu ba hạng người có thể đi trên đường Đại thừa, đó là[/size]
- [*][size=4]Hạng người thực hiện được Trí huệ vô thượng một mình;[/size]
[*][size=4]Hạng người nhờ nghe pháp mà đạt trí huệ;[/size]
[*][size=4]Hạng người có Tín tâm (sa. śraddhā), tin tưởng Phật pháp, mặc dù không đạt được trí huệ tột cùng[/size]
[size=3][size=5]thật về lịch sử Thiếu Lâm Quyền[/size][/size] [size=5]Từ các truyền thuyết trên đã có một vài mâu thuẫn chưa thống nhất về nguồn gốc Thiếu Lâm quyền.[/size]
[size=5]Thứ nhất, câu chuyện về mười ba vị tăng nhân Thiếu Lâm tự cho thấy võ thuật Thiếu Lâm thời đó đã phát triển mạnh mẽ, nhất là từ thời nhà Đường (618-907) trở đi. Thậm chí tại cổng chùa còn để lại bút tích của Lý Thế Dân sau khi đăng quang hoàng đế Đường Triều Trung Hoa.[/size]
[size=5]Tên của môn võ Karate của Nhật Bản được giải thích ngay trong các tài liệu của các võ sư Nhật Bản cũng ghi rõ rằng Kara có nghĩa là triều nhà Đường, và Karaté Do có nghĩa là môn võ tay không (không sử dụng bất kỳ loại binh khí nào) xuất hiện từ thời nhà Đường cho nên còn gọi là Không Thủ Đạo hay Đường Thủ Đạo.[/size]
[size=5]Thứ hai, truyền thuyết về Thiếu Lâm quyền vẫn còn trong bóng tối của lịch sử vì hai nhân vật Giác Viễn và Bạch Ngọc Phong xuất hiện từ thời nhà Minh (1368-1644) và nhà Thanh(1644-1912) trở đi, và bởi vì lịch sử Thiếu Lâm quyền vào thời nhà Tống (960-1279) và nhà Nguyên Mông (1271-1368) kéo dài cả mấy trăm năm vẫn không có gì để được ghi nhận cả.[/size]
[size=5]Thứ ba, truyền thuyết cho rằng Bồ Đề Đạt Ma là Sư tổ của võ Thiếu Lâm cũng phải cần xem xét lại vì còn có nhiều điểm tồn nghi.[/size]
[size=5]Giả thiết về nhà sư Viên Trường Quang vừa kể trên từ Giáo Sư Vũ Đức ghi chép lại theo lời kể của võ sư Đoàn Tâm Ảnh cũng không có gì để làm bằng chứng xác thực từ nguồn tài liệu nào.[/size]
[size=5]Ở đây gần ghi nhận thêm rằng, ở Phương Đông Cổ đại cũng như ở Phương Tây Cổ đại đều chú ý đến hai nguồn sử liệu. Một nguồn sử liệu viết chính xác các niên đại do chính các vị Sử QuanChính sử. Nguồn thứ hai là dạng sử liệu lưu truyền trong dân gian gọi là Dã sử, trong Dã sử lại bao gồm cả Huyền sử là một loại truyền thuyết dân gian thần thoại mang tính hư cấu (Imaginary) nhiều hơn là sự thật, kiểu như sự tích Thần Nữ Oa đội đá vá trời, …[/size] trong triều đình viết và có nguồn tài liệu tra khảo chính xác được gọi là
[size=5]Vậy tại sao không có một tài liệu nào của các vị võ sư đề cập đến giai đoạn này (Tống - Nguyên). Trong khi viết về lịch sử Thiếu Lâm quyền, đa phần họ chỉ bám theo sự kiện phát tích các môn quyền mà không để ý đến các niên đại của các phát tích đó, thậm chí chỉ dựa hoàn toàn vào truyền thuyết lưu truyền trong dân gian.[/size]
[size=3][size=5][sửa] Triệu Khuông Dẫn và câu chuyện Hồng Quyền[/size][/size] [size=5]Sau sự kiện Đường Thái Tông Lý Thế Dân hậu đãi chùa Thiếu Lâm và để lại bút tích tại bia đá ở cổng chùa cho đến nay vẫn còn, các vị hoàng đế Trung Hoa sau này cũng đều có cùng chung cảm hứng đến Thiếu Lâm tự để bày tỏ uy danh của triều đại mình cũng không thua kém uy danh của triều nhà Đường, một triều đại mà lịch sử ghi lại là phát triển rực rỡ nhất trong tất cả các triều đại phong kiến Trung Hoa không chỉ ở lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội mà còn phát triển ở cả lĩnh vực văn hóa và học thuật tiêu biểu như các thể thơ Đường Luật và ca trù với các Thi sĩ nổi tiếng như Lý Thái Bạch (còn gọi là Lý Bạch), Thôi Hiệu, Đỗ Phủ, nhất là sau sự kiện Đường tăng Trần Huyền Trang sang Thiên Trúc (Ấn Độ) để thỉnh kinh hoằng dương Phật pháp tại vùng viễn Đông Trung Hoa xa xôi cách trở với xứ Phật.[/size]
[size=5]Sau này các vị võ quan của triều đại nhà Đường (618-907) khi về hưu cũng thường đến chùa Thiếu Lâm để trao đổi võ thuật tạo nên một không khí giao lưu võ thuật mà nó trở thành truyền thống văn hóa và học thuật của nhà chùa cho đến các đời sau. Nhưng cho đến lúc này các bộ môn quyền thuật của Thiếu Lâm vẫn chưa được coi trọng và phát triển đúng tầm cỡ của nó như sau này vì lúc đó các phương pháp sử dụng binh khí vẫn còn thịnh hành và võ khí phòng thân của các vị tăng nhân trong chùa chính là cây côn mà chủ yếu là trường côn.[/size]
[size=5]Chùa Thiếu Lâm lúc đó vẫn còn giữ nghiêm giới luật cho nên tuyệt đối cấm các tăng nhân sử dụng các loại võ khí bằng kim loại bén nhọn có thể gây sát thương và dẫn đến tử vong. Đó là điều dễ hiểu tại sao võ Thiếu Lâm lại tiến rất nhanh đến trình độ điêu luyện và tinh diệu về côn pháp.[/size]
[size=5]Các loại binh khí (tục gọi là Thập Bát Ban Binh Khí Võ Nghệ ) chỉ được phát triển ở các dòng Nam Quyền và Bắc Quyền Thiếu Lâm sau này mà thôi.[/size]
[size=5]Kỹ thuật sử dụng trường côn của Thiếu Lâm nổi tiếng đến nỗi Thích Kế Quang (1528-1588) - viên đại tướng của triều nhà Minh sau này có đề cập trong tác phẩm Kỷ Hiệu Tân Thư của ông viết ra rằng côn pháp của Thiếu Lâm lúc đó vang danh khắp miền Nam Bắc Trung Hoa với danh hiệu Thiếu Lâm Đệ Nhất Côn Pháp.[/size]
[size=5]Cũng cùng thời gian này có một viên đại tướng khác nữa của triều Minh là Du Đại DuThích Kế Quang cũng xuất bản tác phẩm Kiếm Kinh (thuật sử dụng Kiếm và Đao) vào năm 1565 có ghi lại thuật đánh trường côn của chùa Thiếu Lâm.[/size] ((1503-1579) là bạn thân với
[size=5]Trong suốt thời nhà Minh (1368 – 1644 T.L.), võ phái Thiếu Lâm tự ở vào thời hưng thịnh, sách "Thiếu Lâm Côn Pháp Xiểng Tông" được biên soạn phổ biến, do Trình Xung Đẩu, tự Tông Du, người ở Tân Đô, sau khi học võ thuần thục với hai vị thiền sư Thiếu Lâm là Hồng Kỷ và Hồng Chuyển, hai vị này đã nổi danh nhất về côn pháp, vào thời vua Minh Vạn Lịch (1573 – 1616 sau T.L.).[/size]
[size=5]Hai vị đại tướng này của triều nhà Minh chính là những người đã lãnh đạo quan quân triều đình lúc đó đánh dẹp sự xâm lăng của các quân đoàn Hải Tặc Nhật Bản (còn gọi là giặc Nụy KhấuTung Sơn kể về sự hy sinh anh dũng của các tăng nhân Thiếu Lâm tự lần thứ hai xuất chinh giúp triều đình phong kiến Trung Hoa (xem trong các trang website tiếng Anh của Hồng Quyền của Lâm Thế Vinh).[/size] thường hay quấy nhiễu các bờ biển của Trung Hoa. Sự kiện lịch sử này có được ghi lại trên các bức tường trong chùa Thiếu Lâm
[size=5]Lịch sử cũng kể lại (chứ không phải là truyền thuyết được lưu truyền trong dân gian) rằng thưở thiếu thời Triệu Khuông Dẫn lúc còn chưa lên làm hoàng đế Trung Hoa sau này mở ra triều đại nhà Tống, ông đã từng lên Thiếu Lâm tự để học tập võ thuật, và trở thành một quyền sư dạy võ thuật trong chùa Thiếu Lâm sau khi sáng tạo ra Tam Thập Lục Thế Trường Quyền (36 thế đánh của Thiếu Lâm Trường Quyền) mà sau này gọi là bài Thiếu Lâm Thái Tổ Trường Quyền (xem tài liệu Nam Quyền Toàn Thư đã dẫn như trên).[/size]
[size=5]Sử liệu thời nhà Tống cũng ghi nhận lại là Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn là người rất giỏi sử dụng côn pháp khi lâm trận và nghệ thuật sử dụng côn pháp của ông rất điêu luyện như các vị đại tướng của ông sử dụng các loại binh khí khác.[/size]
[size=5]Tuy nhiên có một truyền thuyết lưu truyền trong dân gian mà chùa Thiếu Lâm cũng công nhận là bài Thái Tổ Trường Quyền của Triệu Khuông Dẫn soạn ra do ông ta nằm mơ được Tiên Ông dạy cho 36 động tác căn bản của Hồng Quyền rồi tỉnh dậy theo đó mà soạn lại. Giả thuyết này không thể tin cậy được mà chỉ coi là câu chuyện kể nghe cho vui mà thôi. Chỉ có bài quyền này do chính Triệu Khuông Dẫn soạn ra còn lưu truyền đến ngày nay là thật sự cho biết thuở sơ khai Thiếu Lâm quyền có bộ mặt và dung nhan như thế nào để làm nguồn tra khảo vết tích của Thiếu Lâm quyền với đời sau. Ở mục Quyền Kinh trong tác phẩm Kỷ Hiệu Tân Thư của Thích Kế Quang có nói rõ về bài quyền này do Triệu Khuông Dẫn là tác giả.[/size]
[size=5]Cũng trong thời kỳ này (thời nhà Tống) ở chùa Thiếu Lâm Tung Sơn có một vài sự kiện đáng lưu ý là các nhà sư bắt đầu tổng hợp các phương pháp chiến đấu cá nhân bằng tay không, một thể loại chiến đấu đang được lưu truyền trong dân gian ở Trung Hoa lúc đó. Có thể kể ra một số bài quyền ra đời trong thời kỳ này là bài Tiểu Hồng Quyền, Đại Hồng Quyền, Thông Tý Quyền, Ngũ Hợp Quyền và Khán Gia Quyền của hòa thượng Phúc Cư tại chùa Thiếu Lâm Tung Sơn, … (xem Thiếu Lâm Bách Khoa Toàn Thư trọn bộ 23 tập - Nguyên tác Thiếu Thất Sơn Nhân, dịch giả Hồ Tiến Huân, Nhà Xuất Bản Thể Dục Thể Thao - Hà Nội).[/size]
[size=5]Như vậy Hồng quyền của Thiếu Lâm đã xuất hiện ở Thiếu Lâm tự Tung Sơn Hà Nam rất sớm trước khi Hồng quyền của Hồng Hy Quan thuộc dòng Nam Thiếu Lâm Phúc Kiến của Chí Thiện Thiền Sư xuất hiện vào giữa triều đại nhà Thanh sau này ở Quảng Đông.[/size]
[size=3][size=5][sửa] Quyền thuật Trung Hoa và Thiếu Lâm Quyền[/size][/size] [size=5]Theo các tài liệu Khảo Cổ Học của các nhà Khảo Cổ Học ở Trung Hoa cho biết rằng những hình khắc vẽ trên các di tích bằng xương là dấu vết cho thấy phương thuật (Giốc-Để) đấu vật cổ truyền vẫn còn được áp dụng trong các đời vua nhà Thương (năm 1600 TCN-1027 TCN, nghĩa là trước Thiên Chúa giáng sinh).[/size]
[size=5]Trong Hán Thư ở mục "Nghệ Văn Chí" có nói đến "Binh Kỹ Xảo", tổng cộng 13 thiên, ở thiên thứ 6 có ghi nhận về môn thủ Thủ Bác (võ đánh tay đá chân) mà ngày nay chúng ta gọi là quyền cước"Binh Kỹ Xảo" để áp dụng trong việc huấn luyện các phương pháp chiến đấu cá nhân bằng tay không cho binh sĩ. Trong mục "Vũ Đế Ký" có ghi chép lại rằng: "… Vào mùa Xuân năm Nguyên Phong thứ ba (năm 113 B.C, trước Thiên Chúa), nhà vua chỉ thị tổ chức hội thi đấu Giốc Để (đấu vật cổ truyền)…" cũng như ở mục "Phương Kỷ Lược" có chép: "… Hoàng Đế có thuật Tạp Tử Bộ Dẫn, gồm có mười hai quyển, trong đó đề cập đến phương pháp đạo dẫn".[/size] được liệt kê vào mục
[size=5]Như vậy có thể thấy rằng võ thuật Trung Hoa thời thượng cổ và cổ đại (trước thời nhà Tần (221 TCN - 206 TCN) trước Thiên Chúa giáng sinh) cho đến thời nhà Hán (206 TCN-220) đã xuất hiện các thể loại võ thuật bao gồm hai thể loại: Giốc Để (mà ngày nay ta gọi là đấu vật) và Thủ Bácquyền cước).[/size] (ngày nay ta gọi là
[size=5]Nhưng đồng thời cũng phải nhận rằng nhờ có Bồ Đề Đạt Ma và chùa Thiếu Lâm mà các bộ môn quyền thuật của Trung Hoa được tích hợp và tinh tuyển lại theo những đặc trưng khu biệt tùy theo cá tính nổi trội của từng địa phương mà vẫn không đi ra khỏi lề lối và khuôn phép chung của Thiếu Lâm quyền.[/size]
[size=5]Nếu theo những cứ liệu khảo sát trên như vậy thì cũng chưa có nguồn tài liệu nào xác minh rằng Bồ Đề Đạt Ma sáng tạo ra Dịch Cân Kinh. chùa Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam cũng chưa bao giờ công bố nguồn tài liệu nào của mình ngay tại chùa để xác minh sự kiện này là chính xác. Có nhiều tài liệu còn tìm cách chứng minh rằng Dịch Cân Kinh được chế tác vào thời nhà Minh hoặc nhà Thanh là khoảng thời gian mà Thiếu Lâm quyền đang trong thời kỳ phát triển hưng thịnh nhất so với các thời kỳ trước đó vì căn cứ vào thể loại văn phong và cú pháp (phép đặt câu và sử dụng ngôn từ) đã cho biết Dịch Cân Kinh không thể được sáng tác vào thời nhà Bắc Ngụy, nhà Tùy hay nhà Đường (xem bài Dịch Cân Kinh - Nguồn gốc, Phương Pháp và Ngụy Tạo của Bộ Giáo Dục Việt Nam 2007 phía dưới bài này trong mục Liên Kết Ngoài-Tham Khảo).[/size]
[size=5]Tài liệu này còn cho biết như sau:[/size]
[size=5]"… … … Trong hằng trăm nghìn ngôi chùa Phật Giáo trên thế giới, không một ngôi chùa nào được tiểu thuyết hóa, huyền thoại hóa và thần thánh hóa bằng chùa Thiếu Lâm của bên Trung Quốc (1). Và cũng trong hằng triệu vị tăng, không vị nào được viết, được nói, được tôn sùng bằng ngài Bồ Đề Đạt Ma. Bỏ ra ngoài vấn đề tôn giáo, quả thực Ngài là một trong những người đã đem Thiền công vào Trung Quốc, và làm cho quảng bá.[/size]
[size=5]Ghi chú:[/size]
[size=5]Trung-Quốc có 3 ngôi chùa đều mang tên Thiếu Lâm.[/size]
[size=5] 1. Hà Nam Đăng Phong Tung Sơn Thiếu Lâm tự,
2. Hà Bắc Bàn Sơn Thiếu Lâm tự,
3. Phúc Kiến Toàn Châu Nam Thiếu Lâm tự,
[/size] [size=5]Một trong những sự kiện người ta từ thần thánh hóa ngài, rồi đi đến ngụy tạo ra những bộ Thiền công, Khí công và gán cho ngài là tác giả. Trong đó có bộ Dịch Cân Pháp Tẩy Tủy Kinh. Bài tựa bộ Thiếu Lâm tự tư liệu của Vưu Cốc, Diêu Nguyên, do Văn-Hiến xuất bản xã Bắc Kinh, xb. tháng 10-1984, phần tựa, trang 2 viết:[/size]
[size=5]"Từ trước đến nay, mật bản Dịch Cân Kinh nói là nội công Thiếu Lâm, rồi được lưu truyền trên trăm năm đến giờ. Căn cứ vào sự kết thành của nội dung bộ sách cũng như cú pháp thì không thể nào tin được. Bộ này chỉ có thể được viết vào thời nhà Thanh Khang Hy (1662-1723), Ung Chính (1723-1736) là quá. Trong thời vua Quang Tự (1875-1909), chính Phúc Sơn Vương Tổ Nguyên cũng đã viết: Xét đến Tung Sơn Thiếu Lâm tự, người ta mạo ra tập Nội công đồ, phổ biến rất rộng".[/size]
[size=5]Thực sự Dịch Cân kinh là bộ sách Khí công do các Đạo gia Trung Quốc soạn ra vào cuối đời nhà Minh hay đầu đời nhà Thanh, tương đương với bên Đại Việt vào cuối đời Lê sang đời Nguyễn. Lúc mới xuất hiện Dịch Cân Kinh chỉ là một trong hằng trăm bộ sách Khí-công, không quá siêu việt. Bộ sách này trước năm 1950 chẳng nổi tiếng cho lắm. Nhưng từ khi nhà văn Kim Dung, tiểu thuyết hóa đi trong Thiên Long Bát Bộ, thì bộ kinh này trở thành thánh kinh. Nổi tiếng đến độ đã có người bị ngã gẫy chân, thay vì đi tìm thầy điều trị, lại nằm ỳ ở nhà luyện, chút nữa phải cưa chân. Tác giả Dịch Cân Kinh không biết là ai.[/size]
[size=5]Dịch Cân Kinh ra đời khoảng 1662-1736, thế nhưng Kim Dung lại cho nhân vật tiểu thuyết Mộ Dung Bác, Du Thản Chi, Cưu Ma Trí luyện vào đời Bắc Tống (960-1127). Có lẽ Kim Dung cho rằng mình viết tiểu thuyết, nên không cần sự chính xác, rồi ông cũng và gán cho tác giả là ngài Bồ Đề Đạt Ma của chùa Thiếu Lâm. Thành ra từ thập niên 60 thế kỷ thứ 20, người Việt không hề thấy bộ sách này, rồi cho rằng đó là bộ sách trong huyền thoại, không có thực.[/size]
[size=5]Một số người thất học, trong đó có vài võ sư, vài thầy lang Việt Nam, chưa hề thấy bản Dịch Cân Kinh trên, họ bịa ra nhiều bản Dịch Cân Kinh, rồi đem phổ biến. Tất nhiên quần chúng tin ngay. Trong thời gian 1960-1975 ở miền Nam Việt Nam, ngay khi ra ngoại quốc (1975-2001) lưu truyền một phương pháp luyện Dịch Cân Kinh, bằng tiếng Việt, chỉ có một thức duy nhất là đứng thẳng buông lỏng rồi vẫy tay như chim non tập bay. Đính kèm còn chép thêm rằng nhiều người tập, đã chữa khỏi ung thư gan, lao, thận, Parkinson, huyết áp cao, và hàng chục thứ bệnh nan y. Cho rằng đây là một ấn bản khác của Dịch Cân Kinh, tôi đã bỏ công tra trong các thư viện của những Đại-học Y-khoa Thượng Hải, Giang Tô, Hồ Nam, Phúc Kiến, dĩ chí đến các gia, các phái võ thuộc các hệ Thiếu-Lâm ở Hong Kong, Đài Loan, nhưng cũng không thấy. Vì vậy tôi đặt tên bản này là Dịch Cân Kinh Việt-Nam (DCKVN), vì được sáng tác vào thời kỳ 1960-1975. … … …"[/size]
[size=5]Đó thật sự là sự thực phũ phàng và đau lòng cho niềm tin cao cả vô bờ bến của con người. … … …[/size]
[size=5]Các bài quyền của Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam rất dễ nhận ra so với các hệ quyền của Bắc Thiếu Lâm và Nam Thiếu Lâm sau này ở chỗ bài quyền chỉ di chuyển về hai bên trái và phải đó là đặc điểm của các bài quyền từ thời nhà Bắc Ngụy, nhà Tùy, nhà Đường, nhà Tống kéo dài đền đầu thời kỳ nhà Minh. Đó là các bài sau:[/size]
- [*][size=5]Các bài thời nhà Bắc Ngụy đến thời nhà Tống:[/size]
- [*][size=5]Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam: Tâm Ý Quyền, Tâm Ý Bả, La Hán Thập Bát Thủ, Tiểu Hồng Quyền, Đại Hồng Quyền, Thông Tý Quyền, Khán Gia Quyền, Ngũ Hợp Quyền,Thái Tổ Trường Quyền, Tiểu La Hán Quyền, Đại La Hán Quyền, Kim Cương Quyền, …[/size]
[*][size=5]Bắc Thiếu Lâm: Đàm Thoái Quyền, Tra Quyền hay Soa Quyền, …[/size]
- [*][size=5]Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam:La Hán Quyền, Mai Hoa Quyền, Ngũ Lộ Mai Hoa Quyền, Liên Hoa Quyền, Ngũ Hình Quyền, …[/size]
[*][size=5]Bắc Thiếu Lâm: Phách Quải Quyền, Binh Bộ Quyền của các võ quan thời nhà Minh, …[/size]
- [*][size=5]Bắc Thiếu Lâm: Địa Đàng Quyền, Hình Ý Quyền, Hoa Quyền hay Hóa Quyền của vua Khang Hy nhà Thanh, …[/size]
[*][size=5]Nam Thiếu Lâm: Ngũ Hình Quyền, Cung Tự Phục Hổ Quyền, Hổ Hạc Song Hình Quyền, Thập Hình Quyền, Thiết Tuyến Quyền, Thập Tự Quyền, Tứ Môn Quyền, Phá Sơn Quyền, Hồng Quyền, Tiểu Phục Hổ Quyền, Đại Phục Hổ Quyền, Dạ Hổ Xuất Lâm, Nhị Long Tranh Châu, Hắc Hổ Quyền, Vạn Tự Quyền, Bạch Hạc Quyền, Quý Châu Quyền, Bát Bộ Liên Hoa Quyền Quý Châu Thiếu Lâm…[/size]
[size=5]Nếu quan sát kỹ lưỡng các bài quyền của Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam, Bắc Thiếu Lâm Sơn Đông, Nam Thiếu Lâm Toàn Châu Phúc Kiến ta rất dễ nhận ra một đặc điểm chung là: rất coi trọng các thế tấn khi di chuyển (các mũi bàn chân luôn khép kín không bao giờ mở ra như các phái võ khác), tính đối xứng rất cao, nghĩa là luôn luôn có trên có dưới, có trước có sau, có nhanh có chậm, có cương có nhu, có lúc ào ạt vũ bão nhưng có lúc nhẹ nhàng như lá rụng mùa thu. Cực nhu nhuyễn nhưng cũng cực kiên cương với nguyên lý là “Miên Lý Tàng Kim’’ nghĩa là ngoài mềm trong cứng, trong bông gòn có thép. Còn điểm khác biệt giữa các môn quyền thì tính đối xứng được phân bổ theo độ dài ngắn của các tiết đoạn trong bài quyền tùy theo đặc tính nổi trội của từng địa phương.[/size]
[size=5]Từ khi Thiếu Lâm quyền ra đời bắt đầu từ thời Bắc Ngụy của Hiếu Văn Đế và nhà Tùy, các bộ môn quyền thuật Trung Hoa được lưu truyền trong dân gian đã được đúc kết thành nguyên lý võ thuật tổng quát cho Thiếu Lâm quyền và võ thuật Trung Hoa nói chung: Âm Dương - Cương Nhu - Hư Thực - Động Tĩnh.[/size]
[size=5]Có thể nhận xét khách quan rằng Tính tích hợp và Tính khu biệt tức là đặc trưng hóa những đặc tính nổi trội địa phương là hai xu hướng đối lập trong một chỉnh thể thống nhất của Phép Biện chứng của Thiếu Lâm quyền.[/size]
[size=3][size=5][sửa] Thiếu Lâm Quyền thời Tống – Nguyên[/size][/size] [size=5]Theo tài liệu “Quyền Phổ Thiếu Lâm” được viết tại chùa Thiếu Lâm ở Tung Sơn, Hà Nam thì Thiếu Lâm Quyền lúc sơ khai đã được phát triển bởi các võ tăng trong chùa từ lúc chùa mới xây thời nhà Bắc Ngụy vua Hiếu Văn Đế (xem tài liệu Thiếu Lâm Bách Khoa Toàn Thư, trọn bộ 23 tập, tập 1 Thiếu Lâm Các Bài Quyền Cơ Bản, Nguyên Tác Thiếu Thất Sơn Nhân, dịch giả Hồ Tiến Huân, Nhà Xuất Bản Thể Dục Thể Thao – Hà Nội ngày 12 tháng 11 năm 2002, nhà sách Hoa Niên - số 494 đường Nguyễn Thị Minh Khai, quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh - phát hành).[/size]
[size=5]Các bài quyền trong thời kỳ sơ khai này có thể kể ra như Tâm Ý Quyền, Tâm Ý Bả, v.v … ban đầu rất đơn giản và đã được hoàn thiện ngay sau khi được sáng tác bởi các võ tăng Thiếu Lâm tự. Các bài quyền này được truyền dạy bảo mật trong chùa và không được phép lưu truyền ra ngoài, chỉ có các vị Thiền Tăng bế môn không xuất ngoại thuộc Đạt Ma Viện và các tu viện, thiền phòng trong chùa mới được truyền thụ để gia tăng thể lực phục vụ cho quá trình tu hành.[/size]
[size=5]Đó là nguyên nhân làm cho Thiếu Lâm Quyền trở thành một thứ gì đó giống như là một bí thuật cao siêu trong một thời gian dài từ thời nhà Tùy (581–618) cho đến thời nhà Đường tạo nên một danh tiếng huyền ảo rằng đó là một “Vùng Thánh Địa của các bộ môn quyền thuật Trung Hoa” cứ như thể chùa Thiếu Lâm là một nơi duy nhất phát tích võ thuật Trung Hoa mà dấu ấn của nó ngày nay còn nằm trong các truyền thuyết được lưu truyền trong dân gian ở Trung Quốc, thường hay được đưa vào các loại tiểu thuyết và phim ảnh võ hiệp Hồng Kông. Các truyền thuyết này lâu ngày trở thành một niềm tin giống y hệt như là niềm tin tôn giáo hay niềm tin đạo đức và chính trị.[/size]
[size=5]Ngay cả hai viên đại tướng Thích Kế Quang (tác phẩm Kỷ Hiệu Tân Thư) và Du Đại Du (tác phẩm Kiếm Kinh) thời nhà Minh sau này cũng nghĩ rằng quyền pháp của Thiếu Lâm rất kém và chỉ có côn pháp mà thôi.[/size]
[size=5]Lịch sử chùa Thiếu Lâm cũng ghi nhận rằng các triều đại của nhà nước phong kiến Trung Hoa cho phép chùa được phép xây dựng các đoàn Binh Tăng để bảo vệ chùa với lý do rằng chùa thường xuyên bị bọn lục lâm thảo khấu và nạn đạo tặc địa phương hoành hành chùa vì chùa được nhà nước cấp đất đai rất lớn và nhiều tài sản trong chùa được các vị hoàng đế Trung Hoa và các phật tử bốn phương quyên góp tặng cho rất nhiều.[/size]
[size=5]Cho đến nay chưa có một ngôi chùa nào to lớn và có lịch sử đặc biệt lâu đời còn sót lại từ thời phong kiến cổ đại ở phương Đông như chùa Thiếu Lâm. Lịch sử Phật giáo cũng ghi nhận như vậy và nơi đây chính là Tổ đình của Giáo Phái Phật Giáo Thiền Tông bởi vì Phật Giáo và Đạo GiáoLão Tử làm sư tổ, chuyên luyện các bí thuật trường sinh bất lão như phép đạo dẫn (luyện hơi thở - hô hấp) và luyện kim đan) ở Trung Hoa không được các nhà nước phong kiến coi trọng lắm mặc dù không hạn chế nó và cũng do học thuyết của hai giáo phái này không phục vụ cho nền chính trị của giai cấp quí tộc phong kiến (Nobble class) như là học thuyết của Nho Giáo (Confucianism). Sự kiện Bồ Đề Đạt Ma triều kiến Lương Vũ Đế và học thuyết tư tưởng của trường phái triết học Nho Gia được làm hệ tư tưởng chính thống cho các nhà nước phong kiến trung ương tập quyền ở Trung Hoa và các nước lân cận trong khu vực xung quanh Trung Hoa mà chịu chi phối của nền văn hóa Hán Nho đã cho thấy điều đó.[/size] (một trường phái triết học Trung Quốc cổ đại suy tôn
[size=5]Cũng theo tài liệu trên cho biết các bài quyền trên được sáng tác vào thời nhà Bắc Ngụy trước khi Bồ Đề Đạt Ma đến chùa Thiếu Lâm trụ trì và thuyết pháp.[/size]
[size=5]Như vậy truyền thuyết cho rằng Bồ Đề Đạt Ma sáng tác ra Dịch Cân Pháp Tẩy Tủy Kinh (tục gọi là Dịch Cân Kinh) và La Hán Thập Bát Thủ làm cơ sở nền tảng cho Thiếu Lâm Quyền đã bị chính chùa Thiếu Lâm ở Tung Sơn (Hà Nam) bác bỏ. Điều này rất hợp lý và phù hợp với lịch sử hình thành của ngôi chùa này vì chúng ta đã biết rằng các môn võ đánh đá chân tay mà ngày nay chúng ta gọi là quyền cước hay quyền thuật đã được lưu truyền trong dân gian ở Trung Hoa từ thời cổ đại trước khi chùa Thiếu Lâm được xây dựng và trước khi Bồ Đề Đạt Ma đặt chân đến Trung Hoa qua các tài liệu khảo cổ lưu trữ của các học giả Trung Hoa hiện nay.[/size]
[size=5]Theo tài liệu quyền phổ trên thì rõ ràng các bài quyền của nhà chùa có trước cả Dịch Cân KinhDịch Cân Kinh là những động tác cơ sở nền tảng cho các chiêu thức quyền thuật của Thập Bát La Hán Quyền - là bài quyền đầu tiên thủy tổ cho các bộ môn quyền thuật Thiếu Lâm và tất cả các bộ môn quyền thuật Trung Hoa sau này (?).[/size] trong khi các tài liệu bên ngoài chùa ở Trung Hoa Đại Lục và bên ngoài Trung Hoa Đại Lục cứ thường cho rằng
[size=5]Thậm chí người ta còn gán cho Bồ Đề Đạt Ma sáng tác ra Dịch Cân Kinh trên cơ sở kết hợp phương pháp luyện thở (hô hấp) của Yoga (một trường phái triết học Ấn Độ cổ đại) và môn võ của Ấn Độ chuyên sử dụng tay chân gọi là Cửu Long.[/size]
[size=5]Sự lầm lẫn (hay là cố ý lầm lẫn) tai hại trên đã làm tiêu tốn không biết bao nhiêu công sức và bút mực của các học giả và các nhà khảo cứu khi tìm hiểu về văn hóa Trung Hoa qua các tài liệu chuyên khảo.[/size]
[size=5]Như vậy có thể nói rằng võ thuật Trung Hoa được sáng tác ở trong dân gian từ thời Trung Hoa cổ đại trước khi Bồ Đề Đạt Ma đến chùa Thiếu Lâm hoằng dương Phật pháp.[/size]
[size=5]Sau khi Bồ Đề Đạt Ma đến chùa, thật sự mới bắt đầu có sự kết hợp giữa hai môn võ thuật truyền thống dân gian của Trung Hoa và Ấn Độ và đi đến một hệ thống qui chuẩn sau này gọi là Thiếu Lâm Quyền.[/size]
[size=5]Tài liệu “Quyền Phổ Thiếu Lâm” cũng cho biết các bài Tiểu Hồng Quyền, Đại Hồng Quyền, Thông Tý Quyền, và Kim Cương Quyền, … được sáng tác vào khoảng đầu thời nhà Tống cùng một khoảng thời gian với bài Tam Thập Lục Thế Trường Quyền do Triệu Khuông Dẫn sáng tác mà sau này được đổi tên thành Thái Tổ Trường Quyền.[/size]
[size=5]Bài La Hán Thập Bát Thủ (cũng từ nguồn tài liệu trên), gồm 10 lộ sau này (tức là 10 bài quyền) làm thành một bộ quyền thuật hoàn chỉnh nhất trong nhiều bộ quyền thuật của nhà chùa, được sáng tác vào thời nhà Tùy ban đầu có 18 động tác tay (nghĩa là sau khi Bồ Đề Đạt Ma đến chùa Thiếu Lâm) bởi các võ tăng chính tông chùa Thiếu Lâm sáng tạo ra để giúp cho các vị sư tăng bế môn tọa thiền có thêm các phương pháp gia tăng sức khoẻ trên con đường tu đạo.[/size]
[size=5]Đến thời nhà Đường bài quyền này được phát triển thành 36 động tác tay, vào cuối thời nhà Tống đầu thời nhà Nguyên, nhà sư Giác Viễn, Thu Nguyệt (pháp danh của Bạch Ngọc Phong), … đã phát triển lên đến 173 thế và sau đó Bạch Ngọc Phong (vào thời nhà Nguyên) dựa vào đó kết hợp với các động tác mô phỏng có tính tượng hình cao của năm con vật (tục gọi là Ngũ Linh Thú) gồm Long, Xà, Hổ, Báo, Hạc sáng tạo nên Ngũ Hình Quyền. Bài quyền này sau này được xem như là Ngũ Hình Quyền Nguyên Thủy của Thiếu Lâm tự Tung Sơn (Hà Nam) làm cơ sở cho các bài Ngũ Hình Quyền của Nam Quyền Thiếu Lâm Toàn Châu Phúc Kiến và Ngũ Đại Danh Gia Quyền Thuật (Hồng, Lưu, Lý, Mạc, Thái) và Thiếu Lâm Vịnh Xuân (còn gọi là Vịnh Xuân Quyền) ở Quảng Đông vào thời Minh – Thanh sau này.[/size]
[size=3][size=5][sửa] Thiếu Lâm Quyền thời Minh - Thanh[/size][/size] [size=5]Vào đầu thời Minh – Thanh, quyền thuật Thiếu Lâm đã phát triển rất mạnh mẽ cùng với sự hình thành của các võ phái khắp miền Nam - Bắc Trung Hoa như Võ Đang (Wu Tang Kungfu), Nga MiEmei Kungfu), Thiếu Lâm Côn Luân, Thiếu Lâm Không Động, v.v. …, cùng với các bộ môn quyền thuật mới của các môn đồ Bắc Thiếu Lâm vùng Sơn Đông, Hoa Bắc và Nam Thiếu Lâm ở Toàn Châu (Phúc Kiến), Quảng Đông, Hoa Nam sau khi tinh tuyển các môn quyền thuộc các phái võ dân gian Trung Hoa vô danh đang lưu truyền tại các địa phương nhỏ. Đây mới chính là thời kỳ “Trăm Hoa Đua Nở” của võ thuật Trung Hoa giống như thời Xuân Thu – Chiến Quốc mà lịch sử gọi là thời của “Bách Gia Chư Tử” (trăm nhà học thuật) của các trường phái triết học Trung Hoa cổ đại.[/size] (
[size=5]Sự phát triển võ thuật của các võ phái Trung Hoa và Thiếu Lâm vào thời nhà Minh gắn liền với phong trào đánh đuổi giặc “Thát Đát” (người Mông Cổ) và sự kiện Chu Nguyên Chương sáng lập ra nhà Minh lấy hiệu là Minh Thái Tổ.[/size]
[size=5]Có một số tài liệu viết một sự kiện rằng Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương đã từng học võ tại chùa Thiếu Lâm như Tống Thái Tổ và đã để lại bút tích do chính ngài thủ bút tại bia đá ở cổng chùa. Nguồn tài liệu này cũng không cho biết đã dẫn từ những nguồn tài liệu nào – chính sử hay dã sử nên chưa thể xác minh lại được và ngay tại bia đá cổng chùa của Thiếu Lâm tự Tung Sơn cũng chưa hề nghe ai nhắc nhở đến sự kiện này có thật hay không.[/size]
[size=5]Sự phát triển võ thuật của các võ phái Thiếu Lâm vào thời nhà Thanh gắn liền với phong trào “Phản Thanh Phục Minh” và sự ra đời của các bang hội kín (Secret Societies) như Hồng Môn lấy Hồng Quyền (Hung Kuen hay Red Fist) làm nền tảng quyền pháp mà xưng danh, tục gọi là Hồng Bang Hội (Hung Mun hay Red Association) và Thiên Địa Hội (The Heaven and Earth Society), v.v. …[/size]
[size=5]Bài La Hán Quyền không phải là 10 lộ La Hán Thập Bát Thủ. Bài La Hán Quyền này được sáng tác vào thời nhà Minh – nhà Thanh khoảng cùng thời với các bài Hầu Quyền, Ngũ Lộ Mai Hoa Quyền, Mai Hoa Quyền, Liên Hoa Quyền tại Thiếu Lâm Tung Sơn (Hà Nam) bởi vì các động tác quyền thuật trong các bài quyền này đã có một bước tiến đáng kể trong các động tác của thủ hình (thủ pháp) phức tạp hơn với những loại thủ hình mới như Hầu Thủ, Xà Hình Thủ Pháp, Liên Hoa Thủ, Cầm Nã Thủ là những chiêu thức thủ pháp thuộc loại Nhu Quyền (Soft Boxing) rất thịnh hành vào thời Minh – Thanh chuyên nhấn mạnh đến lực ly tâm của các đường quyền chuyển động theo hình vòng tròn dùng để hóa giải các loại Cương Quyền (Hard Boxing) thường vận động theo đường thẳng. Đây cũng chính là cơ sở để Chí Thiện Thiền sư (thuộc dòng quyền thuật Nam Thiếu Lâm) sáng tác ra kỹ thuật Trường Kiều với lối đánh cho tay quyền đấm theo đường vòng cung như bộ môn quyền Anh của phương Tây sau này, chỉ khác là kỹ thuật Trường Kiều yêu cầu hai cánh tay phải luôn thẳng khi xuất quyền.[/size]
[size=5]Bài quyền nổi tiếng nhất thời nhà Minh của Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam là bài Ngũ Lộ Mai Hoa Quyền được phát triển cùng với bài La Hán Quyền trên cơ sở các loại thủ hình mới là Cầm Nã ThủLiên Hoa Thủ nhưng lại nổi tiếng hơn bài La Hán Quyền vì các bộ tấn của bài Ngũ Lộ Mai Hoa Quyền đòi hỏi các môn đồ Thiếu Lâm khi tập luyện phải di chuyển trên trận đồ Mai Hoa Thung – Thung có nghĩa là các cọc gỗ cao 2-3 mét có đường kính từ 30-40 phân xếp thành hình hoa mai, đây là một sáng kiến mới lạ và vô cùng độc đáo của chùa Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam và phương pháp này sau đó mau chóng khích lệ các bộ môn quyền thuật Bắc Thiếu Lâm như Hình Ý Quyền – còn gọi là Lục Hợp Quyền - của phái Thiếu Lâm Vy Đà (tục gọi là Vy Đà Môn) của dòng họ Vạn Lại thuộc vùng Hoa Bắc và Hạc Quyền của Nam Quyền Thiếu Lâm Hồng Gia của Phương Thế Ngọc, Bạch Hạc Quyền của phái Nam Thiếu Lâm Bạch Hạc phát triển trên Thiên Cương Mai Hoa Thung. Phương pháp luyện quyền trên Mai Hoa Thung Trận sau này đã nhanh chóng trở thành sở trường nghệ thuật lưu diễn cho các đoàn Lân-Sư-Rồng của các phái võ Nam Thiếu Lâm ở Quảng Đông, đó là biểu diễn Lân-Sư-Rồng trên Mai Hoa Thung Trận. Thậm chí có nhiều quyền sư Nam - Bắc Thiếu Lâm còn đề nghị bịt mắt bằng một tấm vải đen để luyện quyền trên Mai Hoa Thung.[/size] và
[size=5]Cũng như các bài quyền thời nhà Tống và nhà Nguyên, các bài quyền của Thiếu Lâm Tung SơnHà Nam thời nhà Minh và nhà Thanh như bài La Hán Quyền và Ngũ Lộ Mai Hoa Quyền kể trên chỉ di chuyển theo phương ngang bên trái và bên phải so với hướng trục chính diện của người luyện.[/size]
[size=5]Công lao của Thích Kế Quang và Du Đại Du được ghi nhận cho đời sau là việc hệ thống các thế quyền căn bản của các dòng quyền thuật trong dân gian, sau đó phổ biến lại cho các nhà sư Thiếu Lâm nhiều chiêu thức tinh diệu và hữu hiệu. Các chiêu thức này vẫn còn ở các bài quyền của Thiếu Lâm Quyền và Thái Cực Quyền ngày nay. Ngoài ra ông còn đưa thêm các nguyên lý của Tôn Tử binh pháp (chiến đấu tập thể) vào quyền thuật.[/size]
[size=5]Có thể kể ra một số tư thế chiêu thức của hai môn quyền này xuất phát từ Thích Kế Quang như sau: Bạch hạc lượng sí, Bài cước, Bạch xà thổ tín, Bạch viên hiến quả, Bạch vân cái đỉnh, Triều thiên, Đơn tiên, Kim Kê độc lập, Hoài Trung Bão Nguyệt, Tảo Phong Cước, Ngọc Nữ Xuyên Thoa, Khóa Hổ, Tấn Bộ Ban Lan Chùy, Cao Thám Mã, …[/size]
[size=5]Các nguyên lý của Tôn Tử binh pháp được viên đại tướng này đưa vào quyền thuật như sau:[/size]
- [*][size=5]Nguyên lý "Thường sơn xà trận pháp" chép lại từ Tôn Tử binh pháp (thế kỷ thứ 5 trước Tây Lịch) được ông áp dụng trong quyền thuật: "chánh như Thường sơn xà trận pháp, đánh đầu thì đuôi tiếp ứng, đánh đuôi thì đầu tiếp ứng, đánh thân thì đầu và đuôi tương ứng" (chánh như Thường sơn xà trận pháp, kích đầu tắc vỹ ứng, kích vỹ tắc đầu ứng, kích kỳ thân nhi đầu vỹ tương ứng).[/size]
[*][size=5]Chiến thuật trá bại được trình bày trong ba chương: quyền, côn và thương. Đó là ba thế "Đảo kỳ long", "Tẩu mã hồi đầu thức" và "Dương du trá hồi thương pháp". Đây là chiến thuật giả bộ thua chạy dụ địch đuổi theo để xoay người đánh một quyền hay đâm một thương, còn lưu lại trong các bài binh khí như Trung Ương Quốc Thuật Quán Tam tài kiếm, Tinh Võ Hội Ngũ hổ thương, Thất Tinh Đường Lang Yến Thanh đơn đao, Vĩnh Xuân Bạch Hạc Song long xuất thủy song đao, Trần Gia Thái Cực Thập tam can, Trần Gia Thái Cực Xuân Thu đại đao… Quyền thuật tại hai tỉnh Quảng Đông và Phước Kiến, có thế giả thua xoay lưng chạy rồi ngồi xuống đất để bất thình lình xoay người lại ném cát vào mắt địch hay nhảy lên đá vào hạ bộ đối thủ, thế có tên là "Linh miêu hí thử" (mèo đùa giởn với chuột !).[/size]
[*][size=5]Nguyên lý "hư thật" và "kỳ chánh" xuất từ Tôn Tử binh pháp được áp dụng trong quyền thuật. Hư thật và kỳ chánh chỉ sự dối trá để lừa địch, đòn đầu là hư và đòn sau là thật. Nhưng hai đòn đầu cũng có thể là hư chỉ đòn thứ ba và thứ tư mới là thật, đây là "Hư hư thật thật" hay "Kỳ kỳ chánh chánh". Địch không biết lúc nào là hư lúc nào là thật ![/size]
[*][size=5]Khái niệm "tiểu môn" và "đại môn" là nền tảng của võ thuật Trung Quốc. Muốn tấn công địch như muốn vào nhà, muốn vào nhà thì ta phải mở cửa, nhà xưa đều có hai cửa: cửa trước và cửa sau. Đại môn là khoảng cách giữa hai tay, là cửa trước, tiểu môn là hông hay lưng địch, là cửa sau. Đường đi vào đại môn ngắn hơn nhưng nguy hiểm hơn vì địch có thể phản công dễ dàng. Ta tấn công vào đại môn khi ta ra đòn trước, khi thế lực ta mạnh hơn. Khi đòn địch không nằm trên trung tâm tuyến thì ta tiến vào cửa chánh vừa đở vừa tấn công.[/size]
- [*][size=5]Khi ta nghiên cứu qua 32 thế quyền của đại tướng, ta có thể thấy vài chiến lược khác như "Thanh đông kích tây" (Làm tiếng động hướng đông nhưng đánh hướng tây) và "Thượng kinh hạ thủ" (Làm địch sợ hãi ở trên để tấn công ở dưới).[/size]
[*][size=5]Và nguyên lý quan trọng khác là "tiệt đả", hiện nay là căn bản của võ thuật Trung Quốc: vừa tiếp đón đòn địch lúc chưa phát triển trên đường chính diện (trung tâm tuyến), vừa phản công.[/size]
[size=5]Tuy nhiên nếu ai đã học cả hai loại quyền thuật của Thái Cực Quyền và Thiếu Lâm Quyền đều biết những Yếu Lý Quyền Pháp của hai dòng quyền này là một[3]. Sự khác biệt trong phong cách thể hiện chỉ là biểu hiện khuynh hướng bề ngoài mà thôi. Đặc biệt là phương pháp Vận Khí Kình[/size] trong quyền thuật của hai loại quyền thuật này cùng một phương pháp như nhau.
[size=5]Có nhiều tài liệu cho rằng Thái Cực quyền là của Trương Tam Phong (Trương Quân Bảo) là môn đồ của Thiếu Lâm Tự Tung Sơn Hà Nam sau này sáng lập ra võ phái Võ Đang. Song, đây là truyền thuyết không đáng tin cậy[4] . Làng Trần Gia Câu không có liên quan gì đến giả thuyết về Trương Tam Phong cả và Thái Cực quyền ngày nay chính là Thái Cực quyền xuất xứ tại làng Trần Gia Câu, Hà Nam.[5]. Thái Cực quyền của làng Trần Gia Câu do Trần Vương Đình sáng tạo chính là nguồn gốc của Thái Cực quyền ngày nay.[/size]
[size=2][size=5][sửa] Các hệ phái của Thiếu Lâm Quyền[/size][/size] [size=5]Trong Thiếu Lâm Quyền có 3 hệ thống quyền thuật biểu hiện theo những kỹ thuật đặc trưng:[/size]
- [*][size=5]Quyền Pháp Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam:[/size]
- [*]
- [*][size=5]La Hán Thập Bát Thủ[/size]
[*][size=5]La Hán Quyền[/size]
[*][size=5]Tiểu La Hán Quyền[/size]
[*][size=5]Đại La Hán Quyền[/size]
[*][size=5]Tiểu Hồng Quyền[/size]
[*][size=5]Đại Hồng Quyền[/size]
[*][size=5]Thông Tý Quyền[/size]
[*][size=5]Triều Dương Quyền[/size]
[*][size=5]Thất Tinh Quyền[/size]
[*][size=5]Ngũ Lộ Mai Hoa Quyền[/size]
[*][size=5]Liên Hoa Quyền[/size]
[*][size=5]Pháo Chùy hay Pháp Trùy (Pháo Quyền)[/size]
[*][size=5]Tâm Ý Bả[/size]
[*][size=5]Tâm Ý Quyền[/size]
[*][size=5]Ngũ Hợp Quyền[/size]
[*][size=5]Khán Gia Quyền[/size]
[*][size=5]Ngũ Hình Quyền (Long, Xà, Hổ, Báo, Hạc)[/size]
[*][size=5]Thái Tổ Trường Quyền[/size]
[*][size=5]Kim Cương Quyền[/size]
[*][size=5]… …[/size]
- [*]
- [*][size=5]Mê Tung Quyền[/size]
[*][size=5]Nhị Lang Quyền[/size]
[*][size=5]Thông Bối Quyền[/size]
[*][size=5]Phách Quải Quyền[/size]
[*][size=5]Phiên Tử Quyền[/size]
[*][size=5]Quan Đông Quyền[/size]
[*][size=5]Tra Quyền hay Soa Quyền[/size]
[*][size=5]Đàm Thoái Quyền hay Đàn Thoái Quyền[/size]
[*][size=5]Bát Cực Quyền[/size]
[*][size=5]Đường Lang Quyền Bắc Thiếu Lâm[/size]
[*][size=5]Ưng Trảo Quyền[/size]
[*][size=5]Pháo Quyền[/size]
[*][size=5]Hình Ý Quyền hay Lục Hợp Quyền của Thiếu Lâm Vy Đà Môn[/size]
[*][size=5]Hoa Quyền hay Hóa Quyền của vua Khang Hy nhà Thanh sáng tạo[/size]
[*][size=5]Địa Đàng Quyền[/size]
[*][size=5]Binh Bộ Quyền của các võ quan thời nhà Minh sáng tạo[/size]
[*][size=5]…[/size]
- [*]
- [*][size=5]Thiếu Lâm Hồng gia[/size]
[*][size=5]Lưu Gia[/size]
[*][size=5]Lý Gia[/size]
[*][size=5]Mạc Gia[/size]
[*][size=5]Thái Gia[/size]
[*][size=5]Thiếu Lâm Bạch Mi[/size]
[*][size=5]Thiếu Lâm Vịnh Xuân[/size]
[*][size=5]Thiếu Lâm Phật Gia Quyền[/size]
[*][size=5]Thiếu Lâm Chung Ngoại Châu Gia.[/size]
[*][size=5]Thiếu Lâm Đường Lang Quyền Nam Phái[/size]
[*][size=5]Thiếu Lâm Bạch Hạc Quyền[/size]
[*][size=5]Thiếu Lâm Quý Châu Quyền[/size]
[*][size=5]…[/size]
[size=5]Đặc trưng của hệ quyền thuật này là các thế tấn thấp và di chuyển rất nhanh và kín đáo (khép kín hai đầu gối), các chiêu thức thủ pháp thì gọn gàng, tiết kiệm động tác, có đủ đòn chân (cước pháp) và đòn tay (thủ pháp), thế quyền nhanh thoăn thoắt, công thủ linh hoạt biến hóa với kỹ thuật thủ pháp (đòn tay) chủ yếu là Liên Hoa Thủ (tay nở như hình hoa sen) và Cầm Nã ThủTiểu Cầm Nã Thủ Pháp: Hầu Thủ và Đại Cầm Nã Thủ Pháp: Xà Hình Thủ Pháp). Do vậy ở Quyền thuật ở Thiếu Lâm tự Tung Sơn Hà Nam (Trung Quốc) không có sự phân biệt Nam Quyền Bắc Cước.[/size] (
- [*][size=5]Các bài quyền của hệ quyền Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam: La Hán Thập Bát Thủ (Shaolin 18 Arhat Form), Tiểu Hồng Quyền (Xiao Hong Quan), Đại Hồng Quyền (Da Hong Quan), Thái Tổ Trường Quyền (Tai Zhu Chang Quan) của Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn, Kim Cương Quyền (Jin Kang Quan), Triều Dương Quyền (Chao Yang Quan), Tâm Ý Bã, Tâm Ý Quyền, Pháo Trùy (Pao Chui), Thất Tinh Quyền, Thông Tý Quyền, Ngũ Hợp Quyền, Khán Gia Quyền, Tiểu La Hán Quyền (Xiao Lohan Quan), Đại La Hán Quyền (Da Lohan Quan), La Hán Quyền (Luohan Quan), Ngũ Lộ Mai Hoa Quyền (Ng Lo Mui Fa Kuen) (còn gọi là Mai Hoa Phong Vũ Quyền), Liên Hoa Quyền (Lin Fa Kuen), Ngũ Hình Quyền Nguyên Thủy (Long-Xà-Hổ-Báo-Hạc) do Bạch Ngọc Phong sáng tác (bài này nghe nói đã thất truyền), …[/size]
- [*][size=5]Vài điểm dẫn xuất[/size]
[size=5]Đây là hệ thống quyền thuật do võ sư Đoàn Tâm Ảnh thuộc hệ phái Thiếu Lâm Côn Luân sáng tạo ra đã được phổ biến tại Sài Gòn vào những năm của thập kỷ 1960 và 1970 và chưa được Thiếu Lâm tự Tung Sơn nạp vào danh sách hệ thống (xem Thập Bát La Hán Quyền của Lạc Việt trong mục Sách Tham Khảo dưới bài Thiếu Lâm Hồng Gia) vì Thiếu Lâm tự Tung Sơn có thời gian bị cấm hoạt động trong thời kỳ Cách Mạng Văn Hóa của Trung Quốc vào thập kỷ 1960 và không có liên lạc gì với bên ngoài.[/size]
[size=4][size=5][sửa] Thiếu Lâm Quyền Bắc Phái Bàn Sơn Hà Bắc,Sơn Đông[/size][/size] [size=5]Thiếu Lâm quyền Bắc Phái Bàn Sơn Hà Bắc - Sơn Đông: các động tác quyền thuật lả lướt, công thủ từ xa, dùng đòn chân nhiều hơn đòn tay nên gọi là Bắc Cước Thiếu Lâm, nhảy cao đá lẹ, bộ pháp chạy nhảy nhiều và di chuyển nhanh, đòn tay (thủ pháp) và đòn chân (cước pháp) tay liền tay, chân liền chân trông như mưa sa sấm chớp liên tục không ngừng.[/size]
- [*][size=5]Các bài quyền nổi tiếng của Bắc Thiếu Lâm: Mê Tung Quyền (còn gọi là Yến Thanh Quyền) của cha con Hoắc Nguyên Giáp (Mê Tung có nghĩa là những bước chân kỳ ảo), Nhị Lang Quyền, Tra Quyền (hay Soa Quyền), Đàn Thoái Quyền, Bát Cực Quyền, Phiên Tử Quyền, Thông Tý Quyền (hay Thông Bối Quyền) (Tong Bei Quan), Phách Quải Quyền, Pháo Quyền (Canon Fists hay Canon Form), Đường Lang Quyền (Mantis Form, Mantis Fist), Hình Ý Quyền, Hoa Quyền (Fa Kuen), Địa Đàng Quyền, Binh Bộ Quyền, Quan Đông Quyền, và Ưng Trảo Quyền (Eagle Form, Eagle Fist), … Các bộ môn quyền thuật của BắcTrường Quyền.[/size] Thiếu Lâm được gọi bằng một tên chung là
[size=5]Khái niệm Trường Quyền không nên lẫn lộn với khái niệm Trường Kiều của các dòng Nam QuyềnNam Quyền Thiếu Lâm thường có câu Ổn Mã Ngạnh Kiều, Trường Kiều Đại Mã, Đoản Kiều Tiểu Mãngựa vững cầu cứng, ngựa lớn cầu dài, ngựa nhỏ cầu ngắn (bộ tấn vững vàng kiều thủ chắc chắn, đánh xa thì bộ tấn rộng đòn tay dài, đánh gần thì bộ tấn hẹp đòn tay ngắn) (xem Nam Quyền Toàn Thư, nguyên tác Trung Văn Quyền sư Trương Tuấn Mẫn, dịch giả Thiên Tường, nhà xuất bản Mũi Cà Mau tháng 1/2004).[/size] Thiếu Lâm ám chỉ lối đánh chuyên dùng các đòn tay rộng và dài với các bộ tấn rộng nên trong nghĩa là
[size=5]Trong bộ môn Wushu có 3 bài Trường Quyền 1-2-3 (Long Fists 1-2-3 hay Chang Quan 1-2-3) tập trung những tinh hoa của quyền thuật Bắc Thiếu Lâm (Northern Shaolin) mà ta có thể thấy rất rõ ràng.[/size]
[size=4][size=5][sửa] Thiếu Lâm Quyền Nam Phái Toàn Châu Phúc Kiến[/size][/size] [size=5]Thiếu Lâm quyền Nam Phái Toàn Châu Phúc Kiến: các động tác quyền thuật chủ về cương quyền nhiều hơn với những chiêu thức thủ pháp dũng mãnh mà dấu vết của nó hiện nay có thể thấy được qua các hệ thống thi triển quyền pháp (tiếng Nhật gọi là Kata) của môn võ Karaté có nguồn gốc từ Thiếu Lâm Nam Quyền Phúc Kiến (võ Karaté được truyền vào Nhật Bản qua hòn đảo Okinawa bởi các thương nhân người Phúc Kiến).[/size]
[size=5]Ngoài Ngũ Đại Danh Gia Quyền Thuật Nam Thiếu Lâm Phúc Kiến là Hồng, Lưu, Lý, Mạc, Thái còn có các hệ phái Nam Quyền khác cũng có nguồn gốc từ Nam Thiếu Lâm như Thiếu Lâm Bạch Mi(Shaolin Pak Mei), Thiếu Lâm Phật Gia Quyền (Shaolin Fut Gar Kuen), Thiếu Lâm Chung Ngoại Châu Gia (Shaolin Chung Oi Jow Gar), Thiếu Lâm Vịnh Xuân Quyền (Shaolin Wing Sun Kuen), Nam Thiếu Lâm Bạch Hạc Quyền (Southern Shaolin White Crance Fist), Nam Thiếu Lâm Quý Châu Quyền, Nam Thiếu Lâm Đường Lang Quyền (Southern Shaolin Mantis Fist), …[/size]
[size=5]Đặc điểm nổi trội của các dòng quyền thuật Nam Thiếu Lâm là thế tấn thấp, không đá cao, thường hay đạp chân (giậm chân) rất mạnh xuống đất và hét lớn (người Trung Hoa gọi là "dĩ thanh trợ lực") giận dữ trợn mắt, rồi vặn eo buông vai phóng quyền với khí thế ào ạt, thế quyền thường di chuyển như cuồng phong bão táp cả hai mặt tấn công lẫn phòng thủ trông rất thô bạo.[/size]
- [*][size=5]Các bài quyền nổi tiếng của Thiếu Lâm Nam Quyền Phúc Kiến: Kim Cương Quyền (Jin Kang Quan) có nguồn gốc từ Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam, Cung Tự Phục Hổ Quyền (Kung Ji Fuk Fu Kuen hay Gung Gee Fuk Fu Kuen) do Chí Thiện Thiền Sư sáng tác, Thiết Tuyến Quyền (Tit Sin Kuen) do Thiết Kiều Tam Thiền Sư sáng tác, Hổ Hạc Song Hình Quyền (Fu Hok Seung Ying Kuen) do Hoàng Phi Hồng sáng tác (có người lại nói là do Lương Bác TrùLương Bác Thau là học trò của Hồng Hy Quan và cũng là chồng của sư tổ Thiếu Lâm Vịnh Xuân Quyền (Shaolin Wing Sun) là bà Nghiêm Vịnh Xuân (Vịnh Xuân chứ không phải là Vĩnh Xuân), Ngũ Hình Quyền (Ng Ying Kuen), Thập Hình Quyền (Sap Ying Kuen) là những bài quyền của Hồng quyền Hồng Hy Quan.[/size] hay
[size=5]Ngay trong các tài liệu do chính các môn đồ Hồng quyền (hay Thiếu Lâm Hồng gia) ở Quảng Đông - Trung Hoa Đại Lục và Hong Kong mà trong tiếng Anh họ dịch là Hung Kuen hay Shaolin Hung Gar cũng nêu rất rõ hai danh từ này chỉ là một mà thôi.[/size]
[size=2][size=5][sửa] Viện Nghiên cứu Võ thuật Trung Quốc và việc hệ thống hóa Thiếu Lâm Quyền[/size][/size] [size=5]Xem thêm bài viết về Wushu[/size] [size=5][/size] [size=5][/size]
[size=5]Hai bức tượng ngay cổng chính đi vào trung tâm huấn luyện võ thuật quốc gia được gọi là Viện Nghiên Cứu Võ Thuật Trung Quốc, nơi đã đào tạo nên Thành Long, Phàn Thiếu Hoàng, Lý Liên Kiệt, Chân Tử Đan, Triệu Văn Trác, Ngô Kinh,…[/size]
[size=5]Năm 1949 sau khi Mao Trạch Đông và Đảng Cộng sản Trung Quốc thống nhất Trung Hoa Đại Lục thành nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, các quyền sư danh gia toàn quốc của các hệ phái lớn như Thiếu Lâm, Võ Đang, Thái Cực Quyền đã được triệu tập để thống nhất thành một bộ môn võ thuật mang tính quốc gia và gọi chung là VÕ THUẬT mà tiếng phổ thông gọi là Wushu.[/size]
[size=5]Khi dùng danh từ VÕ THUẬT (Martial Art) chúng ta nên lưu ý rằng khái niệm này bao hàm vừa võ tay không (tay chân hay quyền cước) và cả binh khí. Còn danh từ QUYỀN THUẬT (Boxing, Fist)[/size] chỉ dùng cho các bộ môn quyền thuật chỉ sử dụng tay chân (quyền cước) và không sử dụng bất kỳ loại binh khí hay khí giới nào cả.
[size=4][size=5][sửa] Wushu và Thiếu Lâm Quyền[/size][/size] [size=5]Bộ môn Wushu này đã được hệ thống hóa lại tại một cơ quan chuyên môn có thẩm quyền mang tính quốc gia là Viện Nghiên cứu Võ thuật Trung ương Bắc Kinh. Cách làm này của nhà nước Trung Quốc là noi gương theo Hoắc Nguyên Giáp (1869 - 1910) người đã sáng lập ra Tinh Võ Thể dục Hội tại Thượng Hải đầu thế kỷ 20 với tôn chỉ là "học tập võ thuật để làm tráng kiện thân thể, làm khỏe mạnh giống nòi dân tộc, nâng cao thể lực để làm cơ sở rèn luyện trí lực dân tộc, không để ngoại bang phương Tây uy hiếp". Do đó sau này, tại khắp vùng Đông Nam Á, nơi nào có cộng đồng người Hoa là nơi đó có sân vận động của Tinh Võ Thể dục Hội, như ở Việt Nam tại Sài Gòn - quận 5 trên đường Nguyễn Trãi có Sân Tinh Võ Quận 5 của người Hoa.[/size]
- [*][size=5]Hai sự kiện lịch sử quan trọng của võ thuật Trung Quốc:[/size]
- [*][size=5]Tinh Võ Thể Dục Hội của Hoắc Nguyên Giáp (1869 - 1910) thành lập vào năm 1909 tại Thượng Hải, Trung Quốc vào cuối triều nhà Thanh.[/size]
[*][size=5]Trung Ương Quốc Thuật Quán thành lập vào năm 1928 tại Nam Kinh do các võ sư miền Bắc Trung Hoa thành lập và tự xưng là Thiếu Lâm Quyền dưới thời Trung HoaDân Quốc do Quốc Dân Đảng Trung Hoa của Tôn Dật Tiên nắm chính quyền.[/size]
- [*][size=5]Võ Thuật Trung Hoa và điện ảnh Các diễn viên võ thuật nổi tiếng của Trung Quốc như Lý Liên Kiệt (Jet Li), Triệu Văn Trác, Chân Tử Đan (hay Chung Tử Đơn) chuyên đóng phim về các danh thủ quyền thuật Thiếu Lâm đều xuất thân học từ Viện Nghiên Cứu Võ Thuật Trung Quốc này cả (Lý Liên Kiệt đã đoạt giải hạng nhì toàn quốc bộ môn Wushu năm mười lăm tuổi (năm 1978) tại Bắc Kinh trong kỹ thuật Trường Quyền.)[/size]
- [*][size=5]Thiếu Lâm quyền gồm hai dạng bài quyền là bài Trường Quyền (Chang Quan) (tập trung các đặc trưng của Thiếu Lâm quyền bắc phái) và bài Nam Quyền (Nan Quan) (tập trung các đặc trưng của Thiếu Lâm quyền nam phái mà chủ yếu là kỹ thuật Trường kiều đại mã[/size] trong Hồng quyền Hồng Hy Quan);
[*][size=5]Võ Đang quyền gồm Bát Quái chưởng (Bagua Zhang) của phái Võ Đang; và cuối cùng là[/size]
[*][size=5]Thái Cực quyền Trần Gia Câu Hà Nam gồm Thái Cực quyền của Trần Vương Đình sáng tác tại làng Trần Gia Câu ở huyện Đăng Phong, tỉnh Hà Nam cách chùa Thiếu Lâm Tung Sơn khoảng 50-70 km.[/size]
[size=5]Theo thống kê toàn Trung Quốc của Viện Nghiên cứu Võ thuật Trung ương Bắc Kinh, tất cả các phái võ có nguồn gốc từ Thiếu Lâm Tự và ngay cả tại Thiếu Lâm Tự (Tung Sơn Hà Nam) có tất cả trên 500 bài quyền Thiếu Lâm, một con số đồ sộ khổng lồ và không ai có thể học hết được cả đời. [6][/size]
[size=2][size=5][sửa] Chú thích[/size][/size] [size=5]Võ Sư Đoàn Tâm Ảnh cũng là một người Hoa di cư sang Việt Nam như cụ Hà Châu và cụ Tô Tử Quang sau đó truyền bá Thiếu Lâm Quyền vào Việt Nam. Riêng cụ Nguyễn Mạnh Đức (hậu duệ đích tôn bốn đời của cụ Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến) là người Việt Nam nhưng lớn lên tại núi La Phù (Luofu Shan) ở Trung Quốc và không biết nói tiếng Việt nhiều nên cũng như là người Hoa gốc Việt.[/size]
[size=5]Sở dĩ nói như vậy vì Thiếu Lâm tự là một môn phái rất lớn được phát triển tích hợp từ các dòng quyền thuật Trung Hoa cổ điển bắt đầu từ giữa đời nhà Đường trở đi sau khi Đường Thái Tông Lý Thế Dân ban tặng cho Thiếu Lâm tự Tung Sơn danh hiệu bất hủ "Thiếu Lâm Thiên Hạ Đệ Nhất Tự" để ghi nhớ công lao của vị Thiền Tăng là Đàm Tông dẫn đầu 12 vị tăng nhân ở Thiếu Lâm tự Tung Sơn giúp Lý Thế Dân dẹp loạn Vương Thế Sung:)[/size]
- [*][size=5]^ Theo sách Quốc Kỷ Luận Lược của Từ Triết Đông (dịch giả Trí Chi và Hồ Hiếu Vũ dịch sang tiếng Việt là Lược Khảo Võ Thuật Trung Hoa, Nhà Xuất Bản Võ Thuật Tùng Thư Sài Gòn ngày 10 tháng 12 năm 1973) và Thái Cực Quyền Thường Thức Vấn Đáp của Trương Văn Nguyên(dịch giả Đàm Trung Hòa, xem mục Sách Tham Khảo trong bài Thiếu Lâm Hồng gia)[/size]
[*][size=5]^ Xem tài liệu Sự Liên Hệ giữa Thái Cực quyền và Thiếu Lâm quyền qua đường link Website trong mục Tham Khảo phía dưới bài Thiếu Lâm Hồng gia[/size]
[*][size=5]^ Xem tài liệu Bài Giảng 13 Yếu Lý Quyền Pháp Thái Cực quyền qua đường link Website trong mục Tham Khảo phía dưới bài Thiếu Lâm Hồng gia.[/size]
[*][size=5]^ Theo các tài liệu võ thuật của người Trung Hoa khảo cứu trong cuốn Quốc Kỷ Luận LượcTừ Triết Đông (đã được dịch giả Trí Chi và Hồ Hiếu Vũ dịch sang tiếng Việt với tựa đề là Lược Khảo Võ Thuật Trung Hoa do nhà xuất bản Võ Thuật Tùng Thư Sài Gòn xuất bản tại Sài Gòn ngày 10 tháng 12 năm 1973)[/size] của
[*][size=5]^ Theo tài liệu Thái Cực Quyền Thường Thức Vấn Đáp do tác giả Trương Văn Nguyên (dịch giả Đàm Trung Hòa dịch sang tiếng Việt).[/size]
[*][size=5]^ Website www.thieulamthaicuc.com[/size]
- [*][size=5]Wushu[/size]
[*][size=5]Thiếu Lâm Hồng gia[/size]
[*][size=5]Thuật ngữ võ thuật[/size]
[*][size=5]Võ thuật[/size]
[*][size=5]Võ Đang phái[/size]
[*][size=5]Nga Mi Võ Phái[/size]
[*][size=5]Trường Quyền[/size]
[*][size=5]Nam Quyền[/size]
[*][size=5]Tượng Hình Quyền[/size]
[*][size=5]Thái Cực quyền[/size]
- [*][size=5]Thiếu Lâm Bách Khoa Toàn Thư - trọn bộ 23 tập - Nguyên tác Trung Văn Thiếu Thất Sơn Nhân, dịch giả Hồ Tiến Huân, nhà xuất bản Thể Dục Thể Thao - Hà Nội năm 2002 - nhà sách Hoa Niên, số 494 đường Nguyễn Thị Minh Khai, quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh (Sài Gòn) phát hành[/size]
[*][size=5]Khí Công Toàn Thư - Hoàng Vũ Thăng, Nhà Xuất Bản Thể Dục Thể Thao, Hà Nội ngày 24 tháng 03 năm 2005 - Nhà sách Hoa Niên số 494 đường Nguyễn Thị Minh Khai, quận 3, Thành Phố Hồ Chí Minh phát hành quý 2 năm 2005[/size]
[*][size=5]Kiến Thức Tổng Hợp Về Khí Công Trung Hoa - Hoàng Vũ Thăng, Nhà Xuất Bản Thể Dục Thể Thao, Hà Nội ngày 12 tháng 11 năm 2002 - Nhà sách Hoa Niên số 494 đường Nguyễn Thị Minh Khai, quận 3, Thành Phố Hồ Chí Minh phát hành tháng 01 năm 2004[/size]
[*][size=5]Khí Công - Tự Chữa Bệnh, Dưỡng Sinh - Hoàng Vũ Thăng, Nhà Xuất Bản Đà Nẵng, ngày 15 tháng 01 năm 1999 - Nhà sách Hoa Niên số 494 đường Nguyễn Thị Minh Khai, quận 3, Thành Phố Hồ Chí Minh phát hành tháng 04 năm 1999[/size]
[*][size=5]Thập Bát La Hán Quyền - Lạc Việt, nhà xuất bản Thể Dục Thể Thao - Hà Nội 1999[/size]
[size=4]
[/size]