Tyrannosaurus rex
Ý nghĩa của cái tên Tyrannosaurus rex là thằn lằn bạo chúa hay như tên gọi của những năm 80 ở Việt Nam là Bá vương long. T-rex là 1 trong số những loài khủng long săn mồi lớn nhất Đại trung sinh, theo những ước tính của các nhà khoa học anh chàng bé bự này dài 12,8 m và nặng 6,8 tấn.
Sinh vật này khá nổi tiếng trong đại chúng với cái tên khá là kiêu nhưng nếu so sánh với những mãnh thú dưới đây nó chẳng hơn một con sói trong số vô vàn hổ báo.
Mapusaurus
Mapusaurus nghĩa là thằn lằn đất, kích cỡ không biết rõ lắm khoảng lớn hơn 10,2 m và nặng ??? tấn (theo những bộ hoá thạch được phục chế thì với kích thước 10,2m nó nặng 3 tấn). Tập tính săn mồi của chúng rất thú vị, săn mồi theo bầy, 1 lần tầm 10 con (=.=)’ và thú săn của chúng cũng chẳng phải hạng xoàng, Argentinosaurus (1 loài khủng long ăn cỏ khổng lồ dài 22m) cứ như đàn sư tử săn voi ấy
Tấn công theo bầy đàn khiến Địa long (tôi tự đặt tên cho nó đấy) có cơ hội săn được nhiều mồi hơn và dĩ nhiên chúng có thể lấy số đông đi áp đảo các bác to lớn hơn để giành mồi vừa săn được. (chơi điếm quá)
Tyrannotitan
Cái tên khá là kỳ quái đối với 1 loài khủng long khi không có hậu tiết Saurus nhỉ? Nó có nghĩa là bạo chúa khổng lồ. Mặc dù có phần Tyranno phía trước nhưng như thế không có nghĩa nó là họ hàng gần của T-rex thực ra nó là thành viên cùng 1 nhà với Giganotosaurus. Kích thước không thua bé T-rex là bao 12,2 m và vẫn chưa xác định được cân nặng của nó.
Spinosaurus
Kẻ to lớn nhất trong phân bộ Theropod (khủng long ăn thịt), có quan hệ họ hàng với thằn lằn vĩ đại (Megalosaurus). Cái tên khoa học của nó có nghĩa là “thằn lằn xương sống” hay “thằn lằn gai” gì đó ai thích gọi sao thì gọi, Spine nhiều nghĩa mà, chủ yếu là bởi vì cái vây khá là nổi bật trên lưng của nó. Với kích thước khủng bố dài 18m nó hoàn toàn áp đảo tất cả các loài khủng long ăn thịt khác, cộng thêm phần vây lưng giúp nó cao hơn, nó là kẻ mạnh nhất, to lớn nhất và quyền lực nhất trong rừng rậm của Đại trung sinh (chỉ trong rừng thôi nhá). Cái trọng lượng khiêm tốn 20 tấn của nó là một cái giá nó phải trả để đổi lấy bộ ngoài đồ sộ của mình. Răng của nó khá nhỏ nhưng với cơ hàm cực khoẻ và dài giống như các loài cá sấu thêm 2 chi trước to khoẻ, nó là động vật săn mồi hoàn hảo trong mắt các nhà khoa học.
Carcharodontosaurus
Tên dài vãi nhỉ nhưng dịch ra thì có mấy chữ thôi, “thằn lằn răng nhọn”, cũng là anh em 1 nhà với Giganotosaurus không kém ông anh của mình là bao nó dài 12-13m và nặng khoảng 6-15 tấn (nặng thế chả trách sao độ cơ động của nó không bằng ông anh kia). Mặc dù hơi bé hơn Giganotosaurus nhưng được cái anh bạn này có răng nhọn và to hơn nhiều (dĩ nhiên vẫn thua T-rex)
Allosaurus
Allosaurus là một chi khủng long Theropod (khủng long ăn thịt) lớn sống cách đây từ 155 đến 145 triệu năm, vào cuối kỉ Jura (từ tầng Kimmerid tới tầng Tithon). Tên gọi Allosaurus có nghĩa "thằn lằn khác" và bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp cổ αλλος/allos ("khác lạ") và σαυρος/sauros ("khủng long"). Dấu tích đầu tiên có thể xác định được thuộc chi này đã được mô tả năm 1877 bởi Othniel Charles Marsh. Là một trong những loài khủng long Theropoda đầu tiên nổi tiếng, từ lâu nó đã được chú ý bởi những người ngoài cộng đồng nghiên cứu khủng long và có mặt trong một số bộ phim truyện và phim tài liệu.
Allosaurus là loài ăn thịt lớn đi bằng 2 chân, đc trang bị vô số những chiếc răng to, sắc nhọn. Chiều dài 8.5m (28 ft), nhưng những nhà khoa học cho rằng nó có thể phát triển lên đến hơn 12m (39 ft). Trái ngược với thân mình to lớn, Allosaurus có chi trước 3 ngón nhỏ, toàn bộ cơ thể đc giữ thăng bằng với chiếc đuôi dài và nặng của mình. Phân bố ở Bắc Mĩ, Châu Phi và kể cả Châu Úc
Là động vật săn mồi to lớn phổ biến nhất ở Morrison Formation, Allosaurus là loài đứng đầu chuỗi thức ăn, con mồi thường là các loài khủng long ăn thực vật lớn và kể cả 1 số loài ăn thịt như:
Ceratosaurus là 1 loài ăn thịt nhỏ thuộc họ Theropod, đc tìm thấy tại Bắc Mĩ, Tanzania, Bồ Đào Nha. Với đầu to, chi trước bé, đôi chân khỏe cùng chiếc đuôi dài, độ rộng chiếc đuôi bằng 1 nửa người trưởng thành. Những mẫu vật thu thập đc cho thấy Ceratosaurus dài 5.3m (17.5 ft), thế nhưng họ cho rằng nó có thể đạt đến 6m (20 ft) bởi lẽ những chiếc xương này chưa phát triển hoàn chỉnh. Phát hiện mới nhất của Cleveland Lloyd Quarry vào giữa 1960 cho thấy Ceratosaurus trưởng thành có thể đạt kích thước 8.8m (30 ft).
Deinosuchus
Cá sấu ma quỷ hay cá sấu khủng khiếp là một bà con xa của loài cá sấu hiện nay với thân hình dài 12 m và nặng 500 ký với 8 tấn (8,5 tấn ấy mà). Sinh vật này sống ngoài biển vì ngoài đó có nhiều thức ăn cho nó nhưng như thế không có nghĩa là nó chê thịt khủng long đâu nhé, nói toẹt móng lợn ra là gặp con nào có thể nhai được là chúng nhai tất như rùa chẳng hạn. Thậm chí các loài khủng long to lớn như anh em nhà Carcharodontosauridae, các bé T-rex và thậm chí Spinosaurus nó cũng chẳng chừa bởi vì nó có chiến thuật tấn công khá là hay. Chỉ cần mặt nước có động (1 chú khủng long đang uống nước) là nó sẽ sẵn sàng nhào vào xử lý con mồi với cách tấn công phục kích và tuyệt chiêu “Cá sấu xoay mình” bá đạo của mình, nó cắn và vặn cổ hết tất cả những con mồi của mình rồi từng bước dìm con mồi xuống nước.
Sarcosuchus
“Siêu cá sấu” hay còn gọi là hoàng đế của loài cá sấu “Sarcosuchus Imperator” sinh vật to lớn này cũng là họ hàng xa của loài cá sấu hiện nay. Chiều dài và cân nặng xêm xêm với cá sấu ma quỷ “Deinosuchus” , dài 11,2-12,2m và nặng 8-10 tấn. Thực đơn của nó cũng không khác anh bạn Deinosuchus là bao. Nhưng có điều mình không biết nó có tuyệt chiêu “Cá sấu xoay mình” hay không? Một thứ cực kỳ hay mà các bạn nên biết, ngoài các loại súng hạng nặng ra những loại khác có lẽ không làm trầy được da của nó đâu.
Nếu bạn gặp một con T-rex thì thật là may mắn bởi vì ít nhất bạn sẽ có cơ hội chạy thoát nhưng nếu trong tầm ngắm của Sarcosuchus thì… mong là bạn sẽ biết tại sao mình chết
Rhamphosuchus
Loài cá sấu lớn nhất hay 1 trong số những loài lớn nhất, Rhamphosuchus tên gọi khá là lạ tai “cảnh sát trưởng họ nhà cá sấu”. Chiều dài cơ thể của nó hiện vẫn còn nằm trong tranh cãi, hoặc là nó là 1 trong số những loài lớn nhất (8-11m) hoặc là nó là lớn nhất (15-18m) và do vậy cân nặng của nó hiện vẫn còn là bí ẩn. Lý do các nhà khoa học không thống nhất với nhau vì có 1 số cho rằng cơ thể của nó ngắn hơn các loài cá sấu khác, tức là nó có cái miệng to tổ chảng với cái thân ngắn ngủn. Khác với Sarcosuchus và Deinosuchus nó là họ hàng gần của cá sấu hiện đại.
Ôi dào! Có mỗi con cá sấu mà chẳng biết nó nặng bao nhiêu, buồn.
Purussaurus brasiliensis
Thêm chàng cá sấu này vào cho đủ bộ nhà cá sấu, tên của nó có nghĩa: “Cá sấu cổ đại” (có lẽ thế), to lớn ngang bằng với các anh em phía trên, Purussaurus dài từ 11 đến 13m, cân nặng không biết và là một loài có họ hàng gần với cá sấu hiện đại, biến mất khỏi thế giới khoảng 8 triệu năm về trước. Đây cũng là một đối thủ nặng ký của so với các loài dã thú khác.
Smilodon
Smilodon (hay còn được gọi là Sabretoothed-cat) là 1 sinh vật tiền sử đặc hữu của Bắc Mỹ và Nam Mỹ, sinh sống từ thế Pleistocen sớm (còn gọi là thế Cách Tân, 1,64 - 0,01 triệu năm trước) thuộc kỷ Đệ Tứ (1,64 triệu năm trước - ngày nay).
Cái tên Smilodon bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp, σμίλη, smilē (knife-con dao) và ὀδoύς, odoús (tooth-răng).
Các chi của loài Smilodon (lớp, phân, bộ, họ, chi, loài) đã được mô tả bởi các nhà tự nhiên học Đan Mạch và nhà cổ sinh vật học Peter Wilhelm Lund vào năm 1841.
Peter Wilhelm Lund (14/6/1801 - 25/5/1880)
Ông tìm thấy hóa thạch của Smilodon populator (1 chi của loài Smilodon) trong các hang động gần thị trấn nhỏ của Lagoa Santa, trong tiểu bang của Minas Gerais thuộc Brazil.
Số lượng chi của loài Smilodon được đưa ra, nhưng ngày nay chỉ có ba trong số đó được chấp nhận.
.Smilodon gracilis (2,5 triệu - 500.000 năm trước đây)
Là loài xuất hiện sớm nhất và nhỏ nhất, cân nặng chỉ khoảng 55 - 100kg. Được cho là tổ tiên của các loài Smilodon sau này.
Hình phục chế của loài Smilodon gracilis.
.Smilodon fatalis (1,6 triệu - 10.000 năm trước đây)
Thay thế Smilodon gracilis ở Bắc Mỹ và xâm chiếm miền Tây Nam Mỹ như một phần của Great American Interchange. Có kích thước tương đương giống mèo lớn nhất còn tồn tại - Hổ Siberia. Cao 1,05m từ mặt đất đến vai và cân nặng 160 - 280kg. Đôi khi hai loài khác được công nhận, Smilodon californicus và Smilodon floridanus, nhưng thường chúng được coi là phân loài của Smilodon fatalis.
Mẫu phục chế của Smilodon fatalis.
.Smilodon populator (1 triệu - 10.000 năm trước đây)
Xuất hiện ở phía Đông Nam Mỹ và là loài lớn nhất của tất cả các Machairodonts (một tuyệt chủng loài động vật có vú ăn thịt thuộc phân họ Mèo đặc hữu của châu Á, châu Phi, Bắc Mỹ, Nam Mỹ và châu Âu từ thế Miocen đển Pleistocen sống từ 23 triệu - 11.000 năm trước). Lớn hơn nhiều so với người anh em họ của mình, S.fatalis và S.gracilis, sở hữu 1 cơ bắp khỏe mạnh, cao 1,22m đến vai và dài 2,6m bao gồm chiếc đuôi 30cm. Cân nặng 360 - 470kg (Hổ Siberia chỉ nặng 400kg) cùng cặp nanh dài 30cm (bình thường chỉ có 15cm).
Smilodon populator sau khi phục chế.
Bộ xương Smilodon tại Bảo tàng lịch sử tự nhiên quốc gia ở Washington D.C, Hoa Kỳ.
Hộp sọ của Smilodon.
Smilodon nổi tiếng nhờ vào cặp răng nanh của mình, một khi 2 chiếc răng này cắm chặt vào cổ - động mạch cổ thì con mồi chỉ còn nước tắt thở mà chết thôi.
Hàm Smilodon có thể mở đến 120 độ, trong khi loài sư tử ngày nay chỉ có thể mở được 65 độ
Con mồi của Smilodon thường là:
Bison antiquus
Titanotylopus spatulus
Titanotylopus spatulus là động vật ăn cỏ sống ở thế Miocene muộn (23,5 - 5,2 triệu năm trước) thuộc kỷ Đệ Tam (65 - 1,64 triệu năm trước) đến thế Pleistocen sớm - thế Cách Tân (1,64 - 0,01 triệu năm trước) thuộc kỷ Đệ Tứ (1,64 triệu năm trước - ngày nay) tại Bắc Mỹ. Cao đến 3,5m nặng từ 454kg - 906kg (1000 - 2000 pound)