Dưới đây là đặc tính kỹ-chiến thuật thể hiện sức mạnh của một số loại tàu ngầm và tàu chiến mặt nước của Hạm đội Thái Bình Dương của Nga:
1. Tuần dương hạm mang tên lửa Varangian – tàu chỉ huy của Hạm đội Thái Bình Dương.
[size=2][/size] |
|
[size=2][/size] |
|
Loại tàu này là "hậu duệ" của tàu chiến cùng tên huyền thoại thế hệ đầu tiên, đã từng tham gia vào cuộc chiến giữa Nga và Nhật trên vùng biển thuộc eo biển Tsushima.
[size=2][/size] |
|
[size=2][/size] |
|
Tuần dương hạm mang tên lửa Varangian hiện nay được trang bị tổ hợp tên lửa tấn công đa năng rất mạnh cho phép tàu có thể tiêu diệt các mục tiêu mặt nước, mặt đất, trên không ở cự ly xa. Bên cạnh đó, tàu còn được trang bị thiết bị phóng bom phản lực, thiết bị phóng ngư lôi và một vài bệ pháo với các cỡ nòng và cấp độ khác nhau. Xuất phát từ các đặc tính kỹ-chiến thuật nêu trên mà NATO đã gọi các loại tàu tuần dương này của Nga là “kẻ hủy diệt tàu sân bay”.
2. Tàu sân bay hạng nặng Novorossisk
[size=2][/size] |
|
Đây là loại tàu sân bay hạng nặng thuộc dự án 1143M được nghiên cứu, chế tạo vào tháng 1/1975. Nó được sử dụng chủ yếu nhằm mục đích tìm kiếm và tiêu diệt tàu ngầm, tàu mặt nước của đối phương trong đội hình tác chiến, đồng thời phối hợp hoạt động cùng các lực lượng khác trong hạm đội để thực hiện các nhiệm vụ được giao.
[size=2][/size] |
|
[size=2][/size] |
|
Tàu có lượng choán nước tiêu chuẩn 31.900 tấn, dài 273,1 m, rộng 51,3 m, cao 61,6 m, lượng mớn nước tối đa111,5 m, công suất 4x35.500 mã lực cho phép tàu có thể chạy với vận tốc tối đa là 32,5 hải lý/giờ trong phạm vi 7.160 dặm. Loại tàu này chỉ có thể hoạt động liên tục trên biển trong khoảng thời gian 30 ngày đêm. Tổng số lượng máy bay chiến đấu và máy bay trực thăng có thể bố trí trên boong tàu là 36 chia đều cho cả hai loại, biên chế trên tàu gồm 1.607 người, trong đó lực lượng không quân chiếm 430 người, bình nhiên liệu dự trữ cho không quân khoảng 1.650 tấn.
[size=2][/size] |
|
[size=2][/size] |
|
Novorossisk được trang bị 4 thiết bị phóng dạng kép tên lửa đối hạm P-500 Basalt (16 quả), 2 thiết bị phóng dạng kép tổ hợp tên lửa phòng không M-11 Storm (96 quả), 2 bệ pháo 2 nòng loại AK-726 cỡ 76,2 mm, 8 bệ pháo 6 nòng AK-630 cỡ 30 mm, 1 thiết bị mang tổ hợp tên lửa chống ngầm RPK-1 (16 tên lửa-ngư lôi 82P), 2 thiết bị phóng bom phản lực RBU-6000 (120 bom sâu RGB-60) cùng nhiều trang thiết bị kỹ thuật hiện đại khác trên khoang như các thiết bị kỹ thuật vô tuyến.
3. Tàu săn ngầm hạng nặng Admiral Panteleev
[size=2][/size] |
|
Đây là tàu săn ngầm cỡ lớn thuộc dự án 1155, được đóng tại nhà máy Yatar ở Kaliningrad vào năm 1987, một năm sau thì bắt đầu hạ thủy. Tàu được chính thức đưa vào biên chế cho Hạm đội Thái Bình Dương từ ngày 1/5/1992. Kể từ tháng 4/2009 tàu Admiral Panteleev đã chính thức tham gia vào sứ mệnh chống cướp biển của lực lượng gìn giữ hòa bình Liên Hợp Quốc tại vịnh Aden.
[size=2][/size] |
|
Tàu Admiral Panteleev có lượng choán nước 7.480 tấn, dài 163 m, rộng 19 m, cao 32 m, lượng mớn nước 7,8 m. Nó được trang bị động cơ có công suất 4x20.000 mã lực cho phép tàu chạy với vận tốc 29,5 hải lý/giờ, có thể hoạt động liên tục trên biển trong thời gian 30 ngày đêm và biên chế kíp lái gồm 293 người.
[size=2][/size] |
|
Vũ khí trang bị trên tàu săn ngầm loại này gồm: 2 bệ pháo nòng đơn loại AK-100 cỡ 100 mm, 4 bệ pháo 6 nòng AK-630M cỡ 30 mm, 8 thiết bị phóng tổ hợp tên lửa phòng không Kinzhal (64 tên lửa), 2x12 tổ hợp tên lửa phòng không RBU-6000 (96 tên lửa RGB-60), 2x4 pháo cỡ 533 mm, 2x4 thiết bị phóng tổ hợp tên lửa chống ngầm Rastrub (8 tên lửa ngư lôi), 2 máy bay trực thăng Ka-27.
[size=2][/size] |
|
[size=2][/size] |
|
4. Tuần dương ngầm chiến lược mang tên lửa Petropavlovlovsk-Kamchatsky
Đây là tàu ngầm nguyên tử thế hệ thứ 2 thuộc dự án 667BDR Kalmar ký hiệu là K-211, còn theo phân loại của NATO thì là Delta-III. Nó đã chính thức được đưa vào biên chế trong Hạm đội Thái Bình Dương của Nga vào ngày 31/1/1979.
[size=2][/size] |
|
Tàu có lượng choán nước 10.600 tấn khi nổi và 13.050 khi hoạt động ngầm dưới mặt nước, chỗ dài nhất 155 m, rộng nhất 11,7 m, lượng mớn nước trung bình 8,7 m. Nó có thể hoạt động ở tốc độ 14 hải lý/giờ trên mặt nước và 24 hải lý/giờ ngầm dưới nước, hoạt động ở độ sâu tối đa 560 m liên tục trong 90 ngày, kíp lái 130 người.
[size=2][/size] |
|
Kalmar được trang bị 4x533 và 2x400 thiết bị phóng mìn-ngư lôi, 16 ngư lôi hoặc 24 quả mìn, 16 thiết bị phóng tên lửa đạn đạo R-29P (PCM-50) mà theo phân loại của NATO là SS-N-18 Stingray và 2 tổ hợp tên lửa phòng không Strela-2M.
theo tvcnews