Tác giả: Thomas Harris
Chương 11
Con côn trùng với thân hình dài giống một xác ướp. Một vỏ bọc gần trong suốt mà các đường viền làm cho người ta nghĩ đến một quan tài. Các phần phụ còn đính với thân, có vẻ như được khắc vậy. Cái mặt nhỏ xíu của nó đượm một chút gì đó khôn ngoan.
- Trước hết, đây không phải là một con vật mà trong lúc bình thường, lại chui vào trong một xác chết, và nó không thuộc loại sống trong nước - Pilcher nói - Tôi không biết cô có hiểu chút ít gì về côn trùng không, và nếu cô muốn, chúng tôi cho cô biết tất cả các chi tiết.
- Các anh cứ nghĩ tôi chưa biết gì hết. Hãy cho tôi biết tất cả đi.
- Đồng ý. Đây là một con nhộng loại sâu bọ hai cánh, một con vật chưa thành thục trong cái kén của nó - cái kén chứa đựng nó trong khi nó biến đổi từ ấu trùng thành một con vật trưởng thành - Pilcher giải thích.
- Một cái kén bằng kitin phải không Pilch? - Roden nhăn mũi để đưa cặp kính lên cao.
- Tôi nghĩ đúng vậy. Anh có muốn tham khảo cuốn CHU về các con vật chưa thành thục không? Tốt rồi, đây là loại nhộng trần của một loài lớn đấy. Phần lớn các con côn trùng tiến hóa đều phải trải qua giai đoạn nhộng này. Rất nhiều loài trong số đó phải qua mùa đông như thế này.
- Quyển sách hay kính lúp Pilcher?
- Kính lúp. - Pilcher đặt mẫu vật trên mặt của kính hiển vi và cúi người xuống với que thông trên tay. - Chúng ta bắt đầu: không có cơ quan hô hấp rõ rệt trên vùng bụng và lưng, có lỗ thở ngay ngực giữa và bụng; chúng ta hãy bắt đầu với cái này.
- Coi naaàooo - Roden thì thầm trong khi lật các trang của quyển sách nhỏ - Có hàm chuyên dùng không?
- Không.
- Có hai mảnh ngoài hàm, trên vùng trước bụng không?
- Có, có.
- Râu nằm ở đâu?
- Giáp với bờ trên của cánh. Hai cặp cánh, cái trong bị che phủ hoàn toàn. Chỉ ba đoạn bụng dưới là ở ngoài. Có mấy cơ bìu nhỏ và nhọn, chắc là một loại của họ bộ cánh phấn.
- Đó là những gì quyển CHU cho biết - Roden xác nhận.
- Đây là họ bươm bướm - Pilcher cắt nghĩa - Người ta có thể tìm thấy khắp nơi.
- Sẽ không dễ nếu các cánh vẫn còn ướt. Tôi phải đi tìm sách mới được. Tôi nghĩ chắc không thể ngăn quý vị nói về tôi trong lúc tôi không có mặt.
- Tôi cũng nghĩ như thế - Pilcher đáp lại - Roden là một con người được lắm - anh nói với Clarice, ngay khi người bạn anh ta bước ra khỏi phòng.
- Thật đấy. - Pilcher có vẻ vui thích - Chúng tôi học chung với nhau; trong thời đại học chúng tôi làm tất cả những việc lặt vặt mà chúng tôi có thể tìm được. Roden tìm được một việc mà anh ta phải ở dưới một mỏ than để canh chừng sự phân rã prôton. Chỉ có điều anh ta ở trong tối quá lâu. Nhưng anh ta khỏe lắm. Với điều kiện là không ai đề cập đến prôton cả.
- Tôi sẽ cố tránh đề tài đó.
Pilcher rời xa vùng ánh sáng chói chang.
- Họ bộ cánh phấn là một họ lớn lắm đấy. Có khoảng ba mươi ngàn loại bươm bướm ngày và một trăm ba mươi ngàn loại đêm. Tôi muốn rút nó ra khỏi cái kén quá đi, buộc phải vậy thôi để thu hẹp phạm vi điều tra.
- Đồng ý. Nhưng anh có thể lấy ra mà không làm hư không?
- Tôi nghĩ là được. Cô hãy nhìn đi, nó bắt đầu muốn chui ra ngoài trước khi chết. Có một vết rách không đều trên cái kén, đây này. Chắc phải mất một ít thời gian.
Pilcher xé cho lớn cái vết rách tự nhiên và thật nhẹ nhàng lôi con côn trùng ra. Hai cánh, còn dính với thân hình, và ướt mèm. Trải hai cánh ra cũng khó như trải một khăn giấy Kleenex ướt được vò thành cục. Không có hình vẽ gì rõ rệt cả.
Roden đã trở lại với mấy quyển sách trên tay.
- Sẵn sàng chưa? - Pilcher hỏi - Tốt lắm. Xương đùi của đốt đầu ở ngực bị che khuất.
- Còn lông thì sao?
- Không có lông. Cô làm ơn tắt ngọn đèn đó được không, cô Starling?
Cô đứng cạnh cái công tắc trên tường, chờ Pilcher bật sang cây bút pin của anh ta và đưa nó ra xa cái bàn để chiếu thẳng vào con vật. Mắt của con côn trùng sáng lên trong bóng tối, phản chiếu lại tia sáng nhỏ bé.
- Một con bướm đêm - Roden lên tiếng.
- Có thể lắm, nhưng là loại nào đây? Nhờ cô bật đèn lại giùm. Đây là loại ngài đêm, cô Starling, một con bướm đêm - Thế có bao nhiêu loại ngài đêm vậy Roden?
- Hai ngàn sáu trăm… và tất cả được mô tả.
- Thường chúng không lớn như thế này. Tốt rồi. Bây giờ hãy cho chúng tôi xem anh biết làm gì đây, anh bạn già của tôi!
Đầu tóc bù xù của Roden bao phủ cái kính hiển vi.
- Bây giờ chúng ta phải xem xét lớp da của nó để tìm được chủng loại, về mặt này, Roden tài lắm.
Clarice có cảm tưởng không khí bây giờ có chút gì đó hòa nhã hơn.
Roden phản ứng lại bằng một cuộc tranh luận thật hăng say với Pilcher về cách bố trí các cục u của thời ấu trùng trên con vật mẫu, có được xếp thành hình tròn hay không. Và cuộc tranh luận trở nên sóng gió khi đề cập đến sự hiện diện của lông trên bụng.
- Con Erebus odora - cuối cùng Roden kết luận.
- Chúng ta hãy đi kiểm tra xem - Pilcher nói.
Mang con vật mẫu theo, họ dùng thang máy xuống tầng có con voi trắng và bước vào một phòng tứ giác chứa đầy hộp màu xanh lá. Đây là một hành lang rộng lớn được chia thành hai tầng để có thể tạo đủ chỗ cho loại côn trùng của viên Smithsonian. Họ bước đến chỗ dành cho bướm đêm. Pilcher coi lại các ghi chú của mình và dừng lại ngay trước một cái hộp cao khoảng một mét rưỡi.
- Chúng ta phải thật cẩn thận với những thứ này - anh ta nói trong lúc tháo cánh cửa nặng bằng kim loại để đặt nó xuống đất - Nếu chẳng may nó rớt xuống chân thì không thể nào đặt chân xuống đất trong nhiều tuần lễ đấy.
Anh ta cho ngón tay trỏ chạy trên các ngăn tủ, rồi chọn một cái và kéo nó ra.
Clarice nhìn thấy nhiều trứng bé nhỏ và một cái kén trong một ống đựng đầy cồn và một con côn trùng trưởng thành làm mẫu. Một con bướm lớn màu nâu đậm, thân hình lông lá, hai cái râu mảnh mai, có chiều ngang khoảng mười lăm phân.
- Con Erebus odora đây rồi - Pilcher nói - Con phù thủy đen.
Roden lật vài trang.
- Một loại của miền nhiệt đới, mà khi đến mùa thu, đi ngược lên tận Canada - anh ta đọc.
Ấu trùng sống trên cây keo và những loại cây tương tự. Có nguồn gốc từ đảo Ăng ti và miền nam Hoa Kỳ, được xem là có hại tại Hawaii.
Mẹ kiếp, Clarice thầm chửi.
- Thật điên rồ - cô nói lớn tiếng - Nó được tìm thấy ở khắp mọi nơi sao!
- Đợi một chút coi… đúng, ở miền cực nam Florida và miền nam Texas.
- Khi nào?
- Vào tháng năm và tháng tám.
- Coi nào… cái mẫu của cô phát triển nhiều hơn cái của chúng tôi và rất mới. Nó bắt đầu xé rách cái kén để chui ra. Tại quần đảo Ăng ti và Hawaii thì tôi có thể hiểu được, nhưng tại đây đang là mùa đông. Đáng lý nó còn phải chờ thêm ba tháng mới có thể bay được. Trừ phi việc đó xảy ra tình cờ trong một nhà kính, hoặc có ai đó nuôi nó.
- Nuôi bằng cách nào?
- Trong một cái lồng trong không khí nóng với lá keo để cho ấu trùng có đủ thời gian tạo thành kén. Không khó chút nào.
- Đó là cách tiêu khiển phổ biến không? Ngoài những người chuyên nghiệp, có nhiều người khác làm như thế không?
- Không, chỉ duy nhất các nhà côn trùng học đang cố thu được những con hoàn hảo, có thể vài nhà sưu tầm nào đó. Ngoài ra còn có công nghiệp tơ lụa, họ cũng nuôi loại bướm đêm, nhưng không phải là loại này.
- Chắc phải có loại sách chuyên môn và các hội đoàn bán trang thiết bị chứ!
- Đương nhiên và chúng tôi nhận được phần lớn là các ấn phẩm đó.
- Tôi sẽ soạn cho cô một mớ - Roden nói - Hai hay ba đồng nghiệp của tôi có đặt mua dài hạn loại ấn phẩm đó. Họ khóa chúng trong tủ và ai muốn xem qua đều phải trả hai mươi lăm xu. Với những người này, chúng ta phải chờ đến sáng mai.
- Tôi sẽ cho người đến lấy, xin cám ơn, anh Roden.
Pilcher cho chụp lại các tham khảo liên quan đến con Erebus odora và đưa cho cô cùng con vật.
- Tôi sẽ đưa cô xuống dưới.
Họ đứng chờ thang máy.
- Phần nhiều, người ta thích bươm bướm ngày hơn và ghét loại bướm đêm - anh cho biết. Nhưng những con này lại… lý thú hơn, đáng chú ý hơn.
- Và cũng tàn phá hơn.
- Loại nước mắt gì? Nước mắt của ai vậy?
- Của loài động vật có vú to xác. Như chúng ta vậy - Hồi xưa, bất cứ thứ gì thuộc về đêm đều được xem là ác hại… Đây là công việc chính của cô sao, việc truy lùng Buffalo Bill đấy?
- Tôi cố hết sức mình.
Pilcher đưa lưỡi liếm môi, giống như con mèo chui xuống cái mền vậy.
- Cô có khi nào ra ngoài để ăn một cái bánh mì kẹp pho mát và uống một chai bia, hoặc một ly rượu vang ngon không?
- Những lúc sau này thì không.
- Cô nghĩ sao nếu tôi mời cô đi uống một ly gì đó với tôi ngay bây giờ? Có một quán nước không xa đây.
- Không được, nhưng chính tôi sẽ mời anh một khi công việc này kết thúc… đương nhiên là cả anh Roden nữa.
- Điều này không có vẻ gì là tự nhiên cả - Pilcher đáp lại - Và khi đến thềm nhà, anh nói tiếp - Tôi hy vọng cô sớm kết thúc vụ này, cô Starling.
Cô hối hả bước đến chiếc xe đang chờ cô.
Clarice thấy thư tín và nửa thanh sôcôla trên giường mình. Ardelia Mapp đã ngủ rồi.
Cô đem máy đánh chữ xuống hầm giặt quần áo, để một tờ giấy trắng có giấy than vào trong máy. Cô đã sắp xếp lại trong đầu các thông tin về con Erebus odora trên đường về Quantico, và ngay lúc này cô thảo thật nhanh bản báo cáo của mình.
Sau đó cô ăn phần sôcôla và viết một tin ngắn cho Crawford đề nghị ông đối chiếu các danh sách những người đặt mua các ấn phẩm về côn trùng học của những thành phố gần nơi xảy ra các vụ bắt cóc, với những kẻ phạm tội của FBI cộng thêm hồ sơ của các tên tội phạm về tính dục của Metro Dade, San Antonio và Houston, nơi mà loài bướm đêm rất dễ tìm.
Còn một việc quan trọng cô không thể quên là: hỏi Lecter tại sao ông ta nghĩ tên sát nhân bắt đầu lột da đầu các nạn nhân.
Cô trao bản báo cáo cho người bảo vệ đêm và đi ngủ trong khi vẫn nghe thì thầm các giọng nói của suốt ngày nay và hơi thở nhẹ nhàng của Ardelia. Trong sự lúc nhúc của những hình ảnh trong đêm tối, cô thấy cái khuôn mặt nhỏ bé thật khôn ngoan của con bướm đêm. Đôi mắt như phát sáng này đã nhìn thấy được mặt của Buffalo Bill.
Ngoài hình dáng khôi hài mà viện Smithsonian luôn để lại, trong đầu cô xuất hiện cái ý nghĩ cuối cùng, đoạn kết của ngày làm việc: Trong cái thế giới lạ lùng này, phân nửa cái thế giới hiện tại đang chìm trong bóng đêm, tôi phải truy tìm một vật gì đó sống bằng nước mắt.
- Trước hết, đây không phải là một con vật mà trong lúc bình thường, lại chui vào trong một xác chết, và nó không thuộc loại sống trong nước - Pilcher nói - Tôi không biết cô có hiểu chút ít gì về côn trùng không, và nếu cô muốn, chúng tôi cho cô biết tất cả các chi tiết.
- Các anh cứ nghĩ tôi chưa biết gì hết. Hãy cho tôi biết tất cả đi.
- Đồng ý. Đây là một con nhộng loại sâu bọ hai cánh, một con vật chưa thành thục trong cái kén của nó - cái kén chứa đựng nó trong khi nó biến đổi từ ấu trùng thành một con vật trưởng thành - Pilcher giải thích.
- Một cái kén bằng kitin phải không Pilch? - Roden nhăn mũi để đưa cặp kính lên cao.
- Tôi nghĩ đúng vậy. Anh có muốn tham khảo cuốn CHU về các con vật chưa thành thục không? Tốt rồi, đây là loại nhộng trần của một loài lớn đấy. Phần lớn các con côn trùng tiến hóa đều phải trải qua giai đoạn nhộng này. Rất nhiều loài trong số đó phải qua mùa đông như thế này.
- Quyển sách hay kính lúp Pilcher?
- Kính lúp. - Pilcher đặt mẫu vật trên mặt của kính hiển vi và cúi người xuống với que thông trên tay. - Chúng ta bắt đầu: không có cơ quan hô hấp rõ rệt trên vùng bụng và lưng, có lỗ thở ngay ngực giữa và bụng; chúng ta hãy bắt đầu với cái này.
- Coi naaàooo - Roden thì thầm trong khi lật các trang của quyển sách nhỏ - Có hàm chuyên dùng không?
- Không.
- Có hai mảnh ngoài hàm, trên vùng trước bụng không?
- Có, có.
- Râu nằm ở đâu?
- Giáp với bờ trên của cánh. Hai cặp cánh, cái trong bị che phủ hoàn toàn. Chỉ ba đoạn bụng dưới là ở ngoài. Có mấy cơ bìu nhỏ và nhọn, chắc là một loại của họ bộ cánh phấn.
- Đó là những gì quyển CHU cho biết - Roden xác nhận.
- Đây là họ bươm bướm - Pilcher cắt nghĩa - Người ta có thể tìm thấy khắp nơi.
- Sẽ không dễ nếu các cánh vẫn còn ướt. Tôi phải đi tìm sách mới được. Tôi nghĩ chắc không thể ngăn quý vị nói về tôi trong lúc tôi không có mặt.
- Tôi cũng nghĩ như thế - Pilcher đáp lại - Roden là một con người được lắm - anh nói với Clarice, ngay khi người bạn anh ta bước ra khỏi phòng.
- Thật đấy. - Pilcher có vẻ vui thích - Chúng tôi học chung với nhau; trong thời đại học chúng tôi làm tất cả những việc lặt vặt mà chúng tôi có thể tìm được. Roden tìm được một việc mà anh ta phải ở dưới một mỏ than để canh chừng sự phân rã prôton. Chỉ có điều anh ta ở trong tối quá lâu. Nhưng anh ta khỏe lắm. Với điều kiện là không ai đề cập đến prôton cả.
- Tôi sẽ cố tránh đề tài đó.
Pilcher rời xa vùng ánh sáng chói chang.
- Họ bộ cánh phấn là một họ lớn lắm đấy. Có khoảng ba mươi ngàn loại bươm bướm ngày và một trăm ba mươi ngàn loại đêm. Tôi muốn rút nó ra khỏi cái kén quá đi, buộc phải vậy thôi để thu hẹp phạm vi điều tra.
- Đồng ý. Nhưng anh có thể lấy ra mà không làm hư không?
- Tôi nghĩ là được. Cô hãy nhìn đi, nó bắt đầu muốn chui ra ngoài trước khi chết. Có một vết rách không đều trên cái kén, đây này. Chắc phải mất một ít thời gian.
Pilcher xé cho lớn cái vết rách tự nhiên và thật nhẹ nhàng lôi con côn trùng ra. Hai cánh, còn dính với thân hình, và ướt mèm. Trải hai cánh ra cũng khó như trải một khăn giấy Kleenex ướt được vò thành cục. Không có hình vẽ gì rõ rệt cả.
Roden đã trở lại với mấy quyển sách trên tay.
- Sẵn sàng chưa? - Pilcher hỏi - Tốt lắm. Xương đùi của đốt đầu ở ngực bị che khuất.
- Còn lông thì sao?
- Không có lông. Cô làm ơn tắt ngọn đèn đó được không, cô Starling?
Cô đứng cạnh cái công tắc trên tường, chờ Pilcher bật sang cây bút pin của anh ta và đưa nó ra xa cái bàn để chiếu thẳng vào con vật. Mắt của con côn trùng sáng lên trong bóng tối, phản chiếu lại tia sáng nhỏ bé.
- Một con bướm đêm - Roden lên tiếng.
- Có thể lắm, nhưng là loại nào đây? Nhờ cô bật đèn lại giùm. Đây là loại ngài đêm, cô Starling, một con bướm đêm - Thế có bao nhiêu loại ngài đêm vậy Roden?
- Hai ngàn sáu trăm… và tất cả được mô tả.
- Thường chúng không lớn như thế này. Tốt rồi. Bây giờ hãy cho chúng tôi xem anh biết làm gì đây, anh bạn già của tôi!
Đầu tóc bù xù của Roden bao phủ cái kính hiển vi.
- Bây giờ chúng ta phải xem xét lớp da của nó để tìm được chủng loại, về mặt này, Roden tài lắm.
Clarice có cảm tưởng không khí bây giờ có chút gì đó hòa nhã hơn.
Roden phản ứng lại bằng một cuộc tranh luận thật hăng say với Pilcher về cách bố trí các cục u của thời ấu trùng trên con vật mẫu, có được xếp thành hình tròn hay không. Và cuộc tranh luận trở nên sóng gió khi đề cập đến sự hiện diện của lông trên bụng.
- Con Erebus odora - cuối cùng Roden kết luận.
- Chúng ta hãy đi kiểm tra xem - Pilcher nói.
Mang con vật mẫu theo, họ dùng thang máy xuống tầng có con voi trắng và bước vào một phòng tứ giác chứa đầy hộp màu xanh lá. Đây là một hành lang rộng lớn được chia thành hai tầng để có thể tạo đủ chỗ cho loại côn trùng của viên Smithsonian. Họ bước đến chỗ dành cho bướm đêm. Pilcher coi lại các ghi chú của mình và dừng lại ngay trước một cái hộp cao khoảng một mét rưỡi.
- Chúng ta phải thật cẩn thận với những thứ này - anh ta nói trong lúc tháo cánh cửa nặng bằng kim loại để đặt nó xuống đất - Nếu chẳng may nó rớt xuống chân thì không thể nào đặt chân xuống đất trong nhiều tuần lễ đấy.
Anh ta cho ngón tay trỏ chạy trên các ngăn tủ, rồi chọn một cái và kéo nó ra.
Clarice nhìn thấy nhiều trứng bé nhỏ và một cái kén trong một ống đựng đầy cồn và một con côn trùng trưởng thành làm mẫu. Một con bướm lớn màu nâu đậm, thân hình lông lá, hai cái râu mảnh mai, có chiều ngang khoảng mười lăm phân.
- Con Erebus odora đây rồi - Pilcher nói - Con phù thủy đen.
Roden lật vài trang.
- Một loại của miền nhiệt đới, mà khi đến mùa thu, đi ngược lên tận Canada - anh ta đọc.
Ấu trùng sống trên cây keo và những loại cây tương tự. Có nguồn gốc từ đảo Ăng ti và miền nam Hoa Kỳ, được xem là có hại tại Hawaii.
Mẹ kiếp, Clarice thầm chửi.
- Thật điên rồ - cô nói lớn tiếng - Nó được tìm thấy ở khắp mọi nơi sao!
- Đợi một chút coi… đúng, ở miền cực nam Florida và miền nam Texas.
- Khi nào?
- Vào tháng năm và tháng tám.
- Coi nào… cái mẫu của cô phát triển nhiều hơn cái của chúng tôi và rất mới. Nó bắt đầu xé rách cái kén để chui ra. Tại quần đảo Ăng ti và Hawaii thì tôi có thể hiểu được, nhưng tại đây đang là mùa đông. Đáng lý nó còn phải chờ thêm ba tháng mới có thể bay được. Trừ phi việc đó xảy ra tình cờ trong một nhà kính, hoặc có ai đó nuôi nó.
- Nuôi bằng cách nào?
- Trong một cái lồng trong không khí nóng với lá keo để cho ấu trùng có đủ thời gian tạo thành kén. Không khó chút nào.
- Đó là cách tiêu khiển phổ biến không? Ngoài những người chuyên nghiệp, có nhiều người khác làm như thế không?
- Không, chỉ duy nhất các nhà côn trùng học đang cố thu được những con hoàn hảo, có thể vài nhà sưu tầm nào đó. Ngoài ra còn có công nghiệp tơ lụa, họ cũng nuôi loại bướm đêm, nhưng không phải là loại này.
- Chắc phải có loại sách chuyên môn và các hội đoàn bán trang thiết bị chứ!
- Đương nhiên và chúng tôi nhận được phần lớn là các ấn phẩm đó.
- Tôi sẽ soạn cho cô một mớ - Roden nói - Hai hay ba đồng nghiệp của tôi có đặt mua dài hạn loại ấn phẩm đó. Họ khóa chúng trong tủ và ai muốn xem qua đều phải trả hai mươi lăm xu. Với những người này, chúng ta phải chờ đến sáng mai.
- Tôi sẽ cho người đến lấy, xin cám ơn, anh Roden.
Pilcher cho chụp lại các tham khảo liên quan đến con Erebus odora và đưa cho cô cùng con vật.
- Tôi sẽ đưa cô xuống dưới.
Họ đứng chờ thang máy.
- Phần nhiều, người ta thích bươm bướm ngày hơn và ghét loại bướm đêm - anh cho biết. Nhưng những con này lại… lý thú hơn, đáng chú ý hơn.
- Và cũng tàn phá hơn.
- Loại nước mắt gì? Nước mắt của ai vậy?
- Của loài động vật có vú to xác. Như chúng ta vậy - Hồi xưa, bất cứ thứ gì thuộc về đêm đều được xem là ác hại… Đây là công việc chính của cô sao, việc truy lùng Buffalo Bill đấy?
- Tôi cố hết sức mình.
Pilcher đưa lưỡi liếm môi, giống như con mèo chui xuống cái mền vậy.
- Cô có khi nào ra ngoài để ăn một cái bánh mì kẹp pho mát và uống một chai bia, hoặc một ly rượu vang ngon không?
- Những lúc sau này thì không.
- Cô nghĩ sao nếu tôi mời cô đi uống một ly gì đó với tôi ngay bây giờ? Có một quán nước không xa đây.
- Không được, nhưng chính tôi sẽ mời anh một khi công việc này kết thúc… đương nhiên là cả anh Roden nữa.
- Điều này không có vẻ gì là tự nhiên cả - Pilcher đáp lại - Và khi đến thềm nhà, anh nói tiếp - Tôi hy vọng cô sớm kết thúc vụ này, cô Starling.
Cô hối hả bước đến chiếc xe đang chờ cô.
Clarice thấy thư tín và nửa thanh sôcôla trên giường mình. Ardelia Mapp đã ngủ rồi.
Cô đem máy đánh chữ xuống hầm giặt quần áo, để một tờ giấy trắng có giấy than vào trong máy. Cô đã sắp xếp lại trong đầu các thông tin về con Erebus odora trên đường về Quantico, và ngay lúc này cô thảo thật nhanh bản báo cáo của mình.
Sau đó cô ăn phần sôcôla và viết một tin ngắn cho Crawford đề nghị ông đối chiếu các danh sách những người đặt mua các ấn phẩm về côn trùng học của những thành phố gần nơi xảy ra các vụ bắt cóc, với những kẻ phạm tội của FBI cộng thêm hồ sơ của các tên tội phạm về tính dục của Metro Dade, San Antonio và Houston, nơi mà loài bướm đêm rất dễ tìm.
Còn một việc quan trọng cô không thể quên là: hỏi Lecter tại sao ông ta nghĩ tên sát nhân bắt đầu lột da đầu các nạn nhân.
Cô trao bản báo cáo cho người bảo vệ đêm và đi ngủ trong khi vẫn nghe thì thầm các giọng nói của suốt ngày nay và hơi thở nhẹ nhàng của Ardelia. Trong sự lúc nhúc của những hình ảnh trong đêm tối, cô thấy cái khuôn mặt nhỏ bé thật khôn ngoan của con bướm đêm. Đôi mắt như phát sáng này đã nhìn thấy được mặt của Buffalo Bill.
Ngoài hình dáng khôi hài mà viện Smithsonian luôn để lại, trong đầu cô xuất hiện cái ý nghĩ cuối cùng, đoạn kết của ngày làm việc: Trong cái thế giới lạ lùng này, phân nửa cái thế giới hiện tại đang chìm trong bóng đêm, tôi phải truy tìm một vật gì đó sống bằng nước mắt.
Tại Memphis, bang Tennessee, Catherine và bạn trai của cô đang ngồi trong nhà của anh chàng, xem chương trình tivi và hút vài hơi cần sa. Các đoạn quảng cáo càng lúc càng nhiều hơn.
- Em hơi đói đây, anh có muốn em đi lấy bắp rang không? - cô hỏi.
- Để anh đi cho, đưa chìa khóa đây.
- Anh ngồi yên đó. Bằng mọi cách em phải kiểm tra xem mẹ có gọi không đã.
Catherine Baker Martin đứng lên khỏi cái đi văng. Cô là một thiếu nữ cao lớn, thể tạng rất tốt, da thịt rắn chắc, với khuôn mặt đẹp và tóc thật dày. Cô tìm đôi giày dưới cái bàn thấp và ra khỏi nhà.
Cái đêm tháng Hai này ẩm và lạnh hơn. Một ít sương mù đến từ sông Mississipi, trôi bồng bềnh ngang tầm người trên bãi đậu xe rộng lớn. Tại điểm cao nhất trên đường chân trời, cô thấy một vầng trăng lưỡi liềm nhỏ bé, nhợt nhạt và cong như một lưỡi câu bằng xương. Ngước đầu lên để nhìn như thế làm cho cô choáng váng. Cô bước ra bãi đậu xe, đi về cánh cửa nhà cô cách đó khoảng một trăm thước.
Một chiếc xe tải màu nâu đậu gần đấy, giữa các xe cắm trại và các rờ moọc tàu. Cô để ý đến nó vì giống các xe giao hàng thường đem các thùng quà biếu của mẹ cô.
Lúc cô đi ngang qua đó, một ánh đèn được bật sáng trong sương mù… Trên mặt đường, có một chân đèn có chụp, chiếu sáng một ghế bành được bọc bằng vải có in hình bông hoa đỏ thật lớn, giống như chúng vừa mới nở trong sương mù.
Catherine nháy mắt nhiều cái và tiếp tục bước đi. Nó có vẻ siêu thực quá, cô nghĩ có thể là do cỏ mà ra. Nhưng hình ảnh đó vẫn cứ kéo dài. Chắc một người nào đó đang dọn nhà đến. Hoặc dọn đi không chừng. Có nhiều người làm như thế tại Khu Biệt Thự Stonehinge. Bức rèm nhúc nhích và cô thấy con mèo của cô đang cong lưng, cọ mình vào kính cửa sổ.
Ngay lúc cô muốn đút chìa vào trong ổ khóa, cô xoay đầu lại. Một người đàn ông bước xuống từ phía sau xe. Trong ánh đèn, cô thấy một cánh tay gã bị băng bột và treo trên băng chéo. Cô vào trong nhà và đóng cửa lại.
Catherine vén màn cửa sổ nhìn ra; người đàn ông đó cố kéo chiếc ghế bành lên xe tải. Gã giữ nó bằng cánh tay lành lặn và cố nhấc cái ghế lên bằng cái đầu gối. Cái ghế rớt xuống. Gã đứng lên và chùi ngón tay dính đất vào quần.
Cô bước trở ra.
- Để tôi giúp ông một tay - Cô nói bằng một giọng ân cần.
- Thật thế sao? Xin cảm ơn - Một giọng hết sức căng thẳng. Không phải giọng của dân địa phương.
Ánh đèn chiếu sáng phần dưới mặt gã, làm biến dạng các nét, nhưng cô thấy rất rõ thân hình của gã. Gã mặc quần kaki được ủi thẳng và một loại áo da nai được mở rộng trước ngực đầy tàn nhang. Cằm và gò má hoàn toàn trơ trụi, láng như da của đàn bà vậy; hai mắt chỉ là hai điểm long lanh trong vùng tối của gò má.
Gã nhìn cô chăm chăm và điều này làm cô bối rối. Khi cô bước lại gần họ, nhiều khi cánh đàn ông phải ngạc nhiên vì thân hình của cô và có người che giấu phản ứng của mình hay hơn người khác.
- Tốt lắm - Gã nói.
Người gã thoát ra một mùi vô cùng khó chịu và cô nhận thấy trên áo gã dính đầy lông, mà vài sợi trên vai và ở cánh tay đều quăn.
Họ dễ dàng khiêng cái ghế lên sàn của chiếc xe tải.
- Chúng ta hãy đẩy nó về phía trước, cô nhé! - Gã leo vào bên trong để dịch chuyển vài món đồ, vài cái chậu lớn người ta thường dùng để thay nhớt xe và một cái tời nhỏ quay tay.
Họ đẩy cái ghế bành đến sát các băng ghế.
- Quần áo cô mặc là cỡ bốn mươi bốn phải không? - Gã hỏi.
- Xin lỗi, ông muốn nói gì?
- Cô có thể đưa cho tôi cuộn dây thừng được không? Ngay dưới chân cô đó.
Khi cô vừa khom người xuống, gã đập vào ót cô bằng cánh tay băng bột. Cô tưởng mình vừa đụng đầu, và cánh tay bó bột đó đập một lần nữa. Gã tiếp tục đánh, lần này ngay phía sau lỗ tai, nhưng không mạnh lắm, cho đến khi cô té nhào trên cái ghế bành, lăn xuống sàn xe và nằm bất tỉnh.
Người đàn ông đứng canh cô một lúc, sau đó tháo miếng băng bột và cái khăn chéo ra. Hắn nhanh chóng thu hồi cái đèn và đóng cánh cửa sau xe lại.
Hắn xoay người Catherine lại và với ngọn đèn pin nhìn số của chiếc áo cánh.
- Hay lắm, hắn thốt lên.
Hắn cắt đôi cái áo ở phía sau lưng bằng kéo y khoa và lấy cái áo ra, kế đến còng hai tay cô ra sau lưng. Hắn trải một bấm bạt xuống sàn xe và quấn nó quanh người cô.
Cô không mặc áo lót. Hắn dùng ngón tay sờ nắn hai vú to lớn của cô, để đánh giá sức nặng và độ mềm dẻo của chúng.
- Hay lắm.
Cô có một vết mút hồng ở ngay vú trái. Hắn liếm ngón tay mình để chà lên đó, giống như cách gã đã làm với cái ghế bành và gật đầu khi thấy cái vết đó từ từ biến mất. Hắn mới lật người cô lại và xem xét cái sọ bằng cách bới mớ tóc dày của cô. Miếng băng bột có nhồi bông không làm cho cô bị thương.
- Hhhaaay lllaắmm - hắn lặp lại. Hắn còn phải thực hiện một chuyến đi rất dài để về đến nhà và hắn nghĩ không cần phải băng cô ta lại.
Tại cửa sổ, con mèo của Catherine Baker Martin nhìn ánh đèn sau của chiếc xe xa dần.
Điện thoại reo lên phía sau nó. Trong phòng ngủ, máy trả lời ghi nhận cuộc gọi khi ngọn đèn báo đỏ nhỏ chớp tắt trong bóng tối,
Mẹ của Catherine vừa gọi và bà là thượng nghị sĩ của bang Tenessee, người trẻ nhất của Hoa Kỳ.
- Em hơi đói đây, anh có muốn em đi lấy bắp rang không? - cô hỏi.
- Để anh đi cho, đưa chìa khóa đây.
- Anh ngồi yên đó. Bằng mọi cách em phải kiểm tra xem mẹ có gọi không đã.
Catherine Baker Martin đứng lên khỏi cái đi văng. Cô là một thiếu nữ cao lớn, thể tạng rất tốt, da thịt rắn chắc, với khuôn mặt đẹp và tóc thật dày. Cô tìm đôi giày dưới cái bàn thấp và ra khỏi nhà.
Cái đêm tháng Hai này ẩm và lạnh hơn. Một ít sương mù đến từ sông Mississipi, trôi bồng bềnh ngang tầm người trên bãi đậu xe rộng lớn. Tại điểm cao nhất trên đường chân trời, cô thấy một vầng trăng lưỡi liềm nhỏ bé, nhợt nhạt và cong như một lưỡi câu bằng xương. Ngước đầu lên để nhìn như thế làm cho cô choáng váng. Cô bước ra bãi đậu xe, đi về cánh cửa nhà cô cách đó khoảng một trăm thước.
Một chiếc xe tải màu nâu đậu gần đấy, giữa các xe cắm trại và các rờ moọc tàu. Cô để ý đến nó vì giống các xe giao hàng thường đem các thùng quà biếu của mẹ cô.
Lúc cô đi ngang qua đó, một ánh đèn được bật sáng trong sương mù… Trên mặt đường, có một chân đèn có chụp, chiếu sáng một ghế bành được bọc bằng vải có in hình bông hoa đỏ thật lớn, giống như chúng vừa mới nở trong sương mù.
Catherine nháy mắt nhiều cái và tiếp tục bước đi. Nó có vẻ siêu thực quá, cô nghĩ có thể là do cỏ mà ra. Nhưng hình ảnh đó vẫn cứ kéo dài. Chắc một người nào đó đang dọn nhà đến. Hoặc dọn đi không chừng. Có nhiều người làm như thế tại Khu Biệt Thự Stonehinge. Bức rèm nhúc nhích và cô thấy con mèo của cô đang cong lưng, cọ mình vào kính cửa sổ.
Ngay lúc cô muốn đút chìa vào trong ổ khóa, cô xoay đầu lại. Một người đàn ông bước xuống từ phía sau xe. Trong ánh đèn, cô thấy một cánh tay gã bị băng bột và treo trên băng chéo. Cô vào trong nhà và đóng cửa lại.
Catherine vén màn cửa sổ nhìn ra; người đàn ông đó cố kéo chiếc ghế bành lên xe tải. Gã giữ nó bằng cánh tay lành lặn và cố nhấc cái ghế lên bằng cái đầu gối. Cái ghế rớt xuống. Gã đứng lên và chùi ngón tay dính đất vào quần.
Cô bước trở ra.
- Để tôi giúp ông một tay - Cô nói bằng một giọng ân cần.
- Thật thế sao? Xin cảm ơn - Một giọng hết sức căng thẳng. Không phải giọng của dân địa phương.
Ánh đèn chiếu sáng phần dưới mặt gã, làm biến dạng các nét, nhưng cô thấy rất rõ thân hình của gã. Gã mặc quần kaki được ủi thẳng và một loại áo da nai được mở rộng trước ngực đầy tàn nhang. Cằm và gò má hoàn toàn trơ trụi, láng như da của đàn bà vậy; hai mắt chỉ là hai điểm long lanh trong vùng tối của gò má.
Gã nhìn cô chăm chăm và điều này làm cô bối rối. Khi cô bước lại gần họ, nhiều khi cánh đàn ông phải ngạc nhiên vì thân hình của cô và có người che giấu phản ứng của mình hay hơn người khác.
- Tốt lắm - Gã nói.
Người gã thoát ra một mùi vô cùng khó chịu và cô nhận thấy trên áo gã dính đầy lông, mà vài sợi trên vai và ở cánh tay đều quăn.
Họ dễ dàng khiêng cái ghế lên sàn của chiếc xe tải.
- Chúng ta hãy đẩy nó về phía trước, cô nhé! - Gã leo vào bên trong để dịch chuyển vài món đồ, vài cái chậu lớn người ta thường dùng để thay nhớt xe và một cái tời nhỏ quay tay.
Họ đẩy cái ghế bành đến sát các băng ghế.
- Quần áo cô mặc là cỡ bốn mươi bốn phải không? - Gã hỏi.
- Xin lỗi, ông muốn nói gì?
- Cô có thể đưa cho tôi cuộn dây thừng được không? Ngay dưới chân cô đó.
Khi cô vừa khom người xuống, gã đập vào ót cô bằng cánh tay băng bột. Cô tưởng mình vừa đụng đầu, và cánh tay bó bột đó đập một lần nữa. Gã tiếp tục đánh, lần này ngay phía sau lỗ tai, nhưng không mạnh lắm, cho đến khi cô té nhào trên cái ghế bành, lăn xuống sàn xe và nằm bất tỉnh.
Người đàn ông đứng canh cô một lúc, sau đó tháo miếng băng bột và cái khăn chéo ra. Hắn nhanh chóng thu hồi cái đèn và đóng cánh cửa sau xe lại.
Hắn xoay người Catherine lại và với ngọn đèn pin nhìn số của chiếc áo cánh.
- Hay lắm, hắn thốt lên.
Hắn cắt đôi cái áo ở phía sau lưng bằng kéo y khoa và lấy cái áo ra, kế đến còng hai tay cô ra sau lưng. Hắn trải một bấm bạt xuống sàn xe và quấn nó quanh người cô.
Cô không mặc áo lót. Hắn dùng ngón tay sờ nắn hai vú to lớn của cô, để đánh giá sức nặng và độ mềm dẻo của chúng.
- Hay lắm.
Cô có một vết mút hồng ở ngay vú trái. Hắn liếm ngón tay mình để chà lên đó, giống như cách gã đã làm với cái ghế bành và gật đầu khi thấy cái vết đó từ từ biến mất. Hắn mới lật người cô lại và xem xét cái sọ bằng cách bới mớ tóc dày của cô. Miếng băng bột có nhồi bông không làm cho cô bị thương.
- Hhhaaay lllaắmm - hắn lặp lại. Hắn còn phải thực hiện một chuyến đi rất dài để về đến nhà và hắn nghĩ không cần phải băng cô ta lại.
Tại cửa sổ, con mèo của Catherine Baker Martin nhìn ánh đèn sau của chiếc xe xa dần.
Điện thoại reo lên phía sau nó. Trong phòng ngủ, máy trả lời ghi nhận cuộc gọi khi ngọn đèn báo đỏ nhỏ chớp tắt trong bóng tối,
Mẹ của Catherine vừa gọi và bà là thượng nghị sĩ của bang Tenessee, người trẻ nhất của Hoa Kỳ.
Chương 12
Trong thập niên tám mươi, thời đại vàng son của bọn khủng bố, tất cả mọi thứ được chuẩn bị để đương đầu với bất cứ cuộc bắt cóc nào liên quan đến một thành viên của Quốc hội.
Vào hai giờ bốn mươi lăm sáng, nhân viên chỉ huy văn phòng FBI tại Memphis, báo về bộ chỉ huy Washington việc cô con gái duy nhất của Thượng nghị sĩ Ruth Martin được ghi nhận mất tích.
Đến ba giờ, hai chiếc xe thùng không dấu hiệu đặc biệt chui ra khỏi gara hần Buzzard Point, căn cứ hoạt động tại Washington. Một chiếc tiến về Quốc hội, nơi các chuyên gia đưa hệ thống điện thoại của thượng nghị sĩ Martin vào chế độ nghe lén, cùng các phòng điện thoại công cộng quanh đó. Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ đánh thức người nhân viên trẻ nhất của Ban An ninh của Quốc hội để ông ta ký giấy phép cần thiết.
Chiếc xe được trang bị kính phản chiếu và toàn bộ thiết bị canh chừng, đến đậu trên Đại lộ Virginia để chặn lối ra vào cổng chính Tòa nhà Watergate, nơi cư ngụ của thượng nghị sĩ Martin. Hai trong số người trên xe, đi vào tòa nhà để lắp đặt hệ thống nghe lén các điện thoại cá nhân của bà Thượng nghị sĩ.
Theo công ty điện thoại Bell Atlantic, thời gian cần thiết để truy ra bất cứ một cuộc gọi nào qua trung tâm điện thoại điện tử được ước tính là sáu mươi giây.
Biệt đội phản ứng nhanh tăng đôi số nhân viên để phòng hờ trường hợp có việc đòi tiền chuộc trong vùng Washington. Tất cả các cuộc trao đổi bằng điện đài đều được mã hóa để tránh sự hiện diện qua báo chí cho việc giao nộp tiền chuộc khả dĩ. Các phương tiện truyền thông đại chúng luôn tỏ ra vô trách nhiệm như đã từng xảy ra.
Biệt đội chống khủng bố được đặt trong tình trạng báo động thường trực, sẵn sàng cất cánh bất cứ lúc nào!
Mọi người đều hy vọng Catherine Baker Martin bị bọn chuyên nghiệp bắt cóc để đòi tiền chuộc, bởi với giả thuyết này có nhiều cơ may sống sót hơn.
Không một ai nghĩ đến tình huống xấu nhất có thể xảy ra.
Một ít lâu sau khi trời sáng, một cảnh sát viên tại Memphis, đang truy tìm một kẻ rình mò được các cư dân trên Đại lộ Winchester bắt gặp, có chặn hỏi ông già lượm rác ở một vệ đường. Trên chiếc xe đẩy của ông, có một áo cánh phụ nữ hàng nút trước ngực còn được cài nhưng phần sau lưng bị cắt đôi. Nhãn hiệu của tiệm giặt ủi cho phép kết luận đây là áo của Catherine Baker Martin.
Jack Crawford vừa rời khỏi nhà ông, và đúng sáu giờ ba mươi sáng, điện thoại trên xe ông reo lần thứ nhì trong vòng hai phút.
- Chín hai mươi - hai bốn mươi.
- Bốn mươi, tôi chuyển Alpha 4 cho anh.
Crawford nhìn thấy một chỗ đậu xe trống và lái vào đó đậu lại để chú tâm vào cuộc gọi. Alpha 4 là ông giám đốc FBI.
- Jack, anh biết chuyện gì đã xảy ra với Catherine Martin không?
- Tôi vừa được nhân viên trực báo đây.
- Thế anh nghĩ gì về chiếc áo cánh?
- Buzzard Point đang trong tình trạng sẵn sàng can thiệp, và họ cũng đang kiểm soát hệ thống điện thoại. Áo cánh có bị cắt đôi không, chúng ta cũng chưa chắc đó là Bill. Nếu một tên nào đó bắt chước hắn ta, hắn sẽ đòi tiền chuộc. Thế ai đang canh chừng việc nghe lén và lục soát căn hộ, cảnh sát tiểu bang hay là chúng ta?
- Cảnh sát tiểu bang. Họ rất hữu hiệu. Phil Adler vừa gọi từ Nhà Trắng để cho tôi biết tổng thống “đang theo sát” vụ điều tra. Thêm một chiến tích khác của chúng ta sẽ không hại gì đâu, Jack à.
- Tôi cũng đã nghĩ đến điều này. Thế bà Thượng nghị sĩ đang ở đâu?
- Trên đường đến Memphis. Bà ta vừa gọi đến nhà tôi. Chắc tôi không cần phải nói nhiều với anh chứ?
- Tôi cũng nghĩ thế - Crawford đã gặp Thượng nghị sĩ Martin nhiều lần trong các buổi họp về ngân sách.
- Bà ta sẽ sử dụng đến ảnh hưởng của mình.
- Không thể trách bà ta về việc đó được.
- Đương nhiên rồi. Tôi nói với bà ta là chúng tôi sẽ làm hết mình, như chúng ta đã làm trước đây. Bà ta… bà ta biết tình trạng hiện nay của anh và để sẵn một chiếc phản lực Lear cho anh sử dụng. Hãy dùng nó, và trở về nhà anh vào lúc tối, nếu có thể được.
- Tốt lắm. Bà Thượng nghị sĩ là một người bướng bỉnh. Một khi bà ta muốn nhúng tay vào thì sẽ có đụng độ đấy.
- Tôi biết. Nếu thấy cần, anh cứ việc gọi trực tiếp cho tôi. Thế chúng ta có bao nhiêu thời gian vậy, Jack? Sáu đến bảy ngày phải không?
- Tôi không biết nữa. Nếu hắn hoảng hốt khi biết Catherine là ai, hắn có thể giết chết cô ta và thả xuống sông.
- Anh đang ở đâu vậy?
- Cách Quantico ba cây số.
- Thế một chiếc Lear có thể đáp xuống Quantico không?
- Được.
- Vậy trong hai mươi phút nữa nhé.
- Thưa ông, vâng.
Crawford quay một số điện thoại rồi cho xe chạy.
Vào hai giờ bốn mươi lăm sáng, nhân viên chỉ huy văn phòng FBI tại Memphis, báo về bộ chỉ huy Washington việc cô con gái duy nhất của Thượng nghị sĩ Ruth Martin được ghi nhận mất tích.
Đến ba giờ, hai chiếc xe thùng không dấu hiệu đặc biệt chui ra khỏi gara hần Buzzard Point, căn cứ hoạt động tại Washington. Một chiếc tiến về Quốc hội, nơi các chuyên gia đưa hệ thống điện thoại của thượng nghị sĩ Martin vào chế độ nghe lén, cùng các phòng điện thoại công cộng quanh đó. Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ đánh thức người nhân viên trẻ nhất của Ban An ninh của Quốc hội để ông ta ký giấy phép cần thiết.
Chiếc xe được trang bị kính phản chiếu và toàn bộ thiết bị canh chừng, đến đậu trên Đại lộ Virginia để chặn lối ra vào cổng chính Tòa nhà Watergate, nơi cư ngụ của thượng nghị sĩ Martin. Hai trong số người trên xe, đi vào tòa nhà để lắp đặt hệ thống nghe lén các điện thoại cá nhân của bà Thượng nghị sĩ.
Theo công ty điện thoại Bell Atlantic, thời gian cần thiết để truy ra bất cứ một cuộc gọi nào qua trung tâm điện thoại điện tử được ước tính là sáu mươi giây.
Biệt đội phản ứng nhanh tăng đôi số nhân viên để phòng hờ trường hợp có việc đòi tiền chuộc trong vùng Washington. Tất cả các cuộc trao đổi bằng điện đài đều được mã hóa để tránh sự hiện diện qua báo chí cho việc giao nộp tiền chuộc khả dĩ. Các phương tiện truyền thông đại chúng luôn tỏ ra vô trách nhiệm như đã từng xảy ra.
Biệt đội chống khủng bố được đặt trong tình trạng báo động thường trực, sẵn sàng cất cánh bất cứ lúc nào!
Mọi người đều hy vọng Catherine Baker Martin bị bọn chuyên nghiệp bắt cóc để đòi tiền chuộc, bởi với giả thuyết này có nhiều cơ may sống sót hơn.
Không một ai nghĩ đến tình huống xấu nhất có thể xảy ra.
Một ít lâu sau khi trời sáng, một cảnh sát viên tại Memphis, đang truy tìm một kẻ rình mò được các cư dân trên Đại lộ Winchester bắt gặp, có chặn hỏi ông già lượm rác ở một vệ đường. Trên chiếc xe đẩy của ông, có một áo cánh phụ nữ hàng nút trước ngực còn được cài nhưng phần sau lưng bị cắt đôi. Nhãn hiệu của tiệm giặt ủi cho phép kết luận đây là áo của Catherine Baker Martin.
Jack Crawford vừa rời khỏi nhà ông, và đúng sáu giờ ba mươi sáng, điện thoại trên xe ông reo lần thứ nhì trong vòng hai phút.
- Chín hai mươi - hai bốn mươi.
- Bốn mươi, tôi chuyển Alpha 4 cho anh.
Crawford nhìn thấy một chỗ đậu xe trống và lái vào đó đậu lại để chú tâm vào cuộc gọi. Alpha 4 là ông giám đốc FBI.
- Jack, anh biết chuyện gì đã xảy ra với Catherine Martin không?
- Tôi vừa được nhân viên trực báo đây.
- Thế anh nghĩ gì về chiếc áo cánh?
- Buzzard Point đang trong tình trạng sẵn sàng can thiệp, và họ cũng đang kiểm soát hệ thống điện thoại. Áo cánh có bị cắt đôi không, chúng ta cũng chưa chắc đó là Bill. Nếu một tên nào đó bắt chước hắn ta, hắn sẽ đòi tiền chuộc. Thế ai đang canh chừng việc nghe lén và lục soát căn hộ, cảnh sát tiểu bang hay là chúng ta?
- Cảnh sát tiểu bang. Họ rất hữu hiệu. Phil Adler vừa gọi từ Nhà Trắng để cho tôi biết tổng thống “đang theo sát” vụ điều tra. Thêm một chiến tích khác của chúng ta sẽ không hại gì đâu, Jack à.
- Tôi cũng đã nghĩ đến điều này. Thế bà Thượng nghị sĩ đang ở đâu?
- Trên đường đến Memphis. Bà ta vừa gọi đến nhà tôi. Chắc tôi không cần phải nói nhiều với anh chứ?
- Tôi cũng nghĩ thế - Crawford đã gặp Thượng nghị sĩ Martin nhiều lần trong các buổi họp về ngân sách.
- Bà ta sẽ sử dụng đến ảnh hưởng của mình.
- Không thể trách bà ta về việc đó được.
- Đương nhiên rồi. Tôi nói với bà ta là chúng tôi sẽ làm hết mình, như chúng ta đã làm trước đây. Bà ta… bà ta biết tình trạng hiện nay của anh và để sẵn một chiếc phản lực Lear cho anh sử dụng. Hãy dùng nó, và trở về nhà anh vào lúc tối, nếu có thể được.
- Tốt lắm. Bà Thượng nghị sĩ là một người bướng bỉnh. Một khi bà ta muốn nhúng tay vào thì sẽ có đụng độ đấy.
- Tôi biết. Nếu thấy cần, anh cứ việc gọi trực tiếp cho tôi. Thế chúng ta có bao nhiêu thời gian vậy, Jack? Sáu đến bảy ngày phải không?
- Tôi không biết nữa. Nếu hắn hoảng hốt khi biết Catherine là ai, hắn có thể giết chết cô ta và thả xuống sông.
- Anh đang ở đâu vậy?
- Cách Quantico ba cây số.
- Thế một chiếc Lear có thể đáp xuống Quantico không?
- Được.
- Vậy trong hai mươi phút nữa nhé.
- Thưa ông, vâng.
Crawford quay một số điện thoại rồi cho xe chạy.
Khó chịu trong người vì ngủ không yên giấc. Clarice Starling mặc áo ngủ và mang hài, với cái khăn trên vai đang chờ phòng tắm. Tin của vụ bắt cóc làm cho cô muốn nín thở.
- Trời ơi - cô thốt lên. Không được. Trong đó đủ rồi, nghe không! Phòng tắm đã bị bao vây. Hãy bước ra ngoài với quần lót cầm trên tay. Đây không phải là một cuộc diễn tập! Cô bước vào buồng tắm trước vẻ ngỡ ngàng của người đang chiếm cứ.
- Mày cút khỏi đây đi Gracie và để cục xà phòng lại cho tao.
Tai lắng nghe chuông điện thoại, cô chuẩn bị túi du lịch và để túi dụng cụ pháp y gần cánh cửa. Cô báo cho tổng đài biết cô hiện đang ở trong phòng mình và không đi ăn sáng. Không ai gọi hết. Mười phút sau giờ học, cô hối hả chạy đến Khoa nghiên cứu về thái độ con người.
- Ông Crawford đã lên đường đi Memphis cách đây bốn mươi lăm phút - cô thư ký nói với cô bằng một giọng nhỏ nhẹ - Burroughs cũng thế. Và cả Stafford của phòng thí nghiệm nữa.
- Ngày hôm qua tôi có nộp cho ông ta một bản báo cáo. Thế ông ta có để lại tin nhắn nào cho tôi không? Tên tôi là Clarice Starling.
- Vâng, tôi biết cô là ai mà. Tôi có ba thẻ với số điện thoại của cô và có nhiều cái khác nữa trên bàn làm việc ông ta. Không, ông ta không có để gì cho cô cả - Người phụ nữ nhìn mớ hành lý của Clarice - Nếu ông ta gọi về, tôi có phải nói gì với ông ta không?
- Ông ta có một số điện thoại nào đó tại Memphis không?
- Không. Chính ông ta sẽ gọi về. Thế cô không có giờ học trong ngày hôm nay sao? Cô còn là sinh viên có phải không?
- Đúng. Đúng. Đương nhiên rồi.
Sự trở lại lớp học muộn màng của Clarice không được dễ dàng cho lắm trước sự hiện diện của Gracie Pitman, người bạn mà cô đã tống khứ ra khỏi buồng tắm. Con đường đến chỗ ngồi của mình đối với Clarice dài vô tận. Cái lưỡi của Gracie có đủ thời giờ để xoay hai vòng trong miệng trước khi Clarice có thể hòa lẫn trong lớp học.
Bụng đói meo, cô phải ngồi đó hai tiếng đồng hồ để nghe bài giảng về “trát khám xét thiện ý, không kể đến quy tắc loại trừ trong trường hợp khám xét có bắt giữ người”, trước khi có thể mua một cái gì đó tại máy bán tự động.
Đến trưa, cô nhìn vào ngăn thư của mình nhưng không có tin nhắn nào cả.
Một ngày nào đó, khi người ta thức dậy và cảm thấy hoàn toàn đổi khác. Đối với cô, hôm nay là một ngày như thế. Cái xác trong nhà tang lễ tại Potter đã gây cho cô cảm tưởng như một sự trượt đất kiến tạo vậy.
Clarice có bằng cấp về tâm lý học và tội phạm học. Cuộc đời đã dạy cho cô rằng cái thế giới gớm ghiếc này đã ung dung tiêu hủy vài vật nào đó. Nhưng cô thật sự chưa bao giờ thử nghiệm cả. Giờ thì cô biết rồi: đôi khi một đôi vợ chồng cho một đứa trẻ ra đời với khuôn mặt bình thường, nhưng trí tuệ nó méo mó đến mức sự thỏa mãn các ham muốn của nó kết thúc bằng những gì cô thấy được trên cái bàn bằng sứ tại Potter, Virginie, trong một căn phòng được trang trí bằng những bông hồng to như bắp cải. Nhưng cái trí tuệ đó chắc còn tệ hại hơn các báo cáo giảo nghiệm. Chắc nó phải cứng rắn hơn sự hiểu biết được khắc sâu trong đó, nếu không vết thương đó không bao giờ lành được.
Công việc thường ngày của trường không giúp gì được cho cô. Cô có cảm tưởng sự thật thường nhật vẫn còn ở đâu đó tại chân trời; cô nghe được tiếng thì thầm mênh mông của nó giống như tiếng xì xào của một sân vận động xa xôi. Một tiếng động nhỏ cũng làm cho cô giật mình như tiếng của một đám sinh viên di chuyển ngoài hành lang, bóng của một cụm mây lướt trên sàn nhà, tiếng của một chiếc phi cơ.
Sau các tiết học, Clarice chạy rất nhiều vòng quanh các đường, sau đó cô đi bơi, cho đến khi hình ảnh của những người chết trôi làm cho cô không thể chịu được nước nữa.
Cô xem chương trình tin tức lúc bảy giờ tối với Ardelia cùng một chục sinh viên khác. Lúc đầu không có tin tức gì về vụ cô con gái của Thượng nghị sĩ Martin bị bắt cóc, nhưng bản tin đó đến ngay sau tin về hội nghị về giải trừ quân bị tại Genève.
Nó bắt đầu bằng một cảnh Khu Biệt Thự Stonehinge, được quay với một đèn chiếu của xe cảnh sát. Giới truyền thông, muốn khai thác tối đa vụ này và vì chưa có gì mới cả, nên cánh phóng viên phỏng vấn lẫn nhau ngay bãi đậu xe. Các giới chức có thẩm quyền của Memphis và quận Shelby, khó chịu trước những hàng micro, cúi đầu trước sự tấn công tàn bạo và ồn ào của các đèn flash và hiệu ứng Larsen, nói ra những điều mà họ không hề biết. Khi các điều tra viên bước vào hoặc ra khỏi nhà của Catherine Baker Martin, đám phóng viên ảnh đang núp chui đầu qua khe cửa để sau đó lui bước thật mau giữa các máy quay phim mini của truyền hình.
Một tiếng reo hò ngắn vang lên trong phòng giải lao của trường khi gương mặt của Crawford hiện lên ở khung cửa sổ căn hộ. Clarice chỉ cười mỉm.
Không biết Buffalo Bill có xem chương trình này không. Hắn sẽ nghĩ gì khi thấy mặt của Crawford? Chắc hắn không biết ông là ai đâu.
Những người khác đều nghĩ thế nào Buffalo Bill cũng xem chương trình này. Kế đến người ta thấy thượng nghị sĩ Martin được quay trực diện, một mình trong căn phòng con gái bà; trên tường, một lá cờ hiệu của Trường Đại Học Southwestern, các hình trang trí và một bản văn về sự bình đẳng của các quyền lợi.
Bà là một người to lớn với những nét thô kệch, không duyên dáng.
- Tôi xin nói với người đang bắt giữ con gái tôi. - Bà tiến lại gần máy quay phim hơn, gây ra một hình ảnh mờ bất ngờ, và nói như thể bà không phải đang nói chuyện với một tên khủng bố. - Nếu anh muốn, anh có thể thả con gái tôi ra về bình yên vô sự. Nó tên Catherine. Nó rất dễ thương và tính tình rộng rãi. Tôi van xin anh, hãy thả con gái tôi đi; tôi van anh đấy, hãy thả nó ra và đừng có làm hại nó. Anh đang làm chủ tình hình. Chính anh là người chỉ huy. Tôi biết anh có thể biểu lộ tình thương và lòng trắc ẩn. Anh có thể che chở nó chống lại bất cứ điều gì có thể làm tổn thương đến nó. Anh có cơ hội thật tuyệt vời để chứng minh cho thế giới thấy được anh cũng có thể biểu hiện được lòng nhân từ của anh và anh cũng đủ cao thượng để đối xử với những người khác tốt hơn cách mà thế giới đã đối xử với anh. Con gái tôi tên Catherine.
Bà thượng nghị sĩ quay mặt khỏi máy quay trong khi đài truyền hình chiếu một đoạn phim cho thấy một bé gái đang chập chững bước đi, tay nắm vào mớ lông dày của một con chó chăn cừu xứ Êcốt.
- Phim này cho thấy Catherine khi nó còn bé. Hãy thả nó ra đi - bà thượng nghị sĩ lặp lại - Hãy thả nó ra bình yên vô sự, bất cứ ở đâu, và tôi xin hứa sẽ giúp đỡ và xem anh như người bạn thân thiết của tôi.
Tiếp đến là một loạt ảnh Catherine Martin lúc tám tuổi, trên tay lái của một chiếc thuyền buồm; chiếc tàu đang nằm trong ụ và người cha đang sơn tàu lại. Hai tấm hình mới chụp gần đây, một chụp đứng thẳng người còn cái kia thì chụp gần.
Khuôn mặt của bà thượng nghị sĩ chiếm lại màn hình.
- Tôi xin hứa trước toàn quốc tôi sẽ giúp đỡ anh không có bất cứ một hạn chế nào, mỗi khi anh cần. Tôi có đủ khả năng để làm việc đó. Tôi là Thượng nghị sĩ nước Hoa Kỳ, và là thành viên của Ủy Ban các lực lượng vũ trang. Tôi đang tham gia rất tích cực cái mà người ta gọi là “Chiến Tranh Các Vì Sao”. Nếu có một ai đó xen vào công việc của anh, tôi sẽ chấm dứt việc đó. Anh có thể gọi cho tôi bất cứ lúc nào, cả đêm lẫn ngày. Con gái tôi tên Catherine. Tôi van anh đấy, hãy cho thấy sức mạnh của anh đi. Hãy thả Catherine ra về bình yên vô sự.
- Trời ơi, thật độc đáo quá - Clarice thốt lên. Cô đang run như tàu lá. - Không thể nào tài hoa hơn thế được.
- Cái gì? Về chuyện “Chiến Tranh Các Vì Sao” hả? - Ardelia hỏi - Nếu người ngoài hành tinh đang cố kiểm soát những ý nghĩ của Buffalo Bill từ hành tinh xa xôi của chúng, ngài Martin có thể che chở cho hắn ta sao, đó là lời bịp bợm của bà ta sao?
Clarice gật đầu xác nhận.
- Những người tâm thần phân liệt kiểu hoang tưởng có loại ảo giác đó: họ nghĩ cái thế giới này bị đám người ngoài hành tinh kiểm soát. Nếu đó là kiểu suy nghĩ của Buffalo Bill, có thể điều này sẽ làm cho hắn chui ra khỏi hang. Bà ta phi thường quá phải không? Cho là điều tệ hại nhất đi nữa, hắn cũng cho Catherine được vài ngày an toàn. Cả luôn cảnh sát. Mà có thể không. Crawford nghĩ hắn sẽ giữ họ trong một thời gian ngày càng ngắn hơn. Nhưng người ta có thể thử điều này và cả nhiều việc khác nữa.
- “Tôi sẽ thử mọi cách, nếu nó liên quan đến con gái tôi”. Tại sao bà ta cứ lặp đi lặp lại tên “Catherine” vậy? Tại sao cứ nhắc mãi tên cô ta?
- Bà ta đang cố làm cho hắn thấy Catherine là một con người. Người ta nghĩ chắc hắn phải cố làm mất tính cách con người, phải xem các nạn nhân như những đồ vật để có thể mổ xẻ họ. Những tên giết người hàng loạt, ít ra một số trong bọn chúng được tra hỏi trong trại giam, đã nói như thế. Chúng có cảm tưởng như làm điều đó đối với một con búp bê vậy.
- Thế mày có nghĩ ai là tác giả của bài phát biểu của bà thượng nghị sĩ không?
- Có thể lắm, chắc là bác sĩ Bloom. - Người ta chiếu trên màn hình cuộc phỏng vấn bác sĩ Alan Bloom của trường Đại học Chicago, về những tên giết người hàng loạt vài tuần trước đây.
Ông từ chối so sánh Buffalo Bill với Francis Dolarhyde hoặc với Garrett Hobbs, hoặc với đám tội phạm khác cùng loại. Ông ta không dùng từ “Buffalo Bill”. Nói chung, ông ta không nói thêm gì mới, nhưng ông là một chuyên gia giỏi nhất về vấn đề đó, và đài truyền hình muốn cho thấy khuôn mặt ông ta.
- Trời ơi - cô thốt lên. Không được. Trong đó đủ rồi, nghe không! Phòng tắm đã bị bao vây. Hãy bước ra ngoài với quần lót cầm trên tay. Đây không phải là một cuộc diễn tập! Cô bước vào buồng tắm trước vẻ ngỡ ngàng của người đang chiếm cứ.
- Mày cút khỏi đây đi Gracie và để cục xà phòng lại cho tao.
Tai lắng nghe chuông điện thoại, cô chuẩn bị túi du lịch và để túi dụng cụ pháp y gần cánh cửa. Cô báo cho tổng đài biết cô hiện đang ở trong phòng mình và không đi ăn sáng. Không ai gọi hết. Mười phút sau giờ học, cô hối hả chạy đến Khoa nghiên cứu về thái độ con người.
- Ông Crawford đã lên đường đi Memphis cách đây bốn mươi lăm phút - cô thư ký nói với cô bằng một giọng nhỏ nhẹ - Burroughs cũng thế. Và cả Stafford của phòng thí nghiệm nữa.
- Ngày hôm qua tôi có nộp cho ông ta một bản báo cáo. Thế ông ta có để lại tin nhắn nào cho tôi không? Tên tôi là Clarice Starling.
- Vâng, tôi biết cô là ai mà. Tôi có ba thẻ với số điện thoại của cô và có nhiều cái khác nữa trên bàn làm việc ông ta. Không, ông ta không có để gì cho cô cả - Người phụ nữ nhìn mớ hành lý của Clarice - Nếu ông ta gọi về, tôi có phải nói gì với ông ta không?
- Ông ta có một số điện thoại nào đó tại Memphis không?
- Không. Chính ông ta sẽ gọi về. Thế cô không có giờ học trong ngày hôm nay sao? Cô còn là sinh viên có phải không?
- Đúng. Đúng. Đương nhiên rồi.
Sự trở lại lớp học muộn màng của Clarice không được dễ dàng cho lắm trước sự hiện diện của Gracie Pitman, người bạn mà cô đã tống khứ ra khỏi buồng tắm. Con đường đến chỗ ngồi của mình đối với Clarice dài vô tận. Cái lưỡi của Gracie có đủ thời giờ để xoay hai vòng trong miệng trước khi Clarice có thể hòa lẫn trong lớp học.
Bụng đói meo, cô phải ngồi đó hai tiếng đồng hồ để nghe bài giảng về “trát khám xét thiện ý, không kể đến quy tắc loại trừ trong trường hợp khám xét có bắt giữ người”, trước khi có thể mua một cái gì đó tại máy bán tự động.
Đến trưa, cô nhìn vào ngăn thư của mình nhưng không có tin nhắn nào cả.
Một ngày nào đó, khi người ta thức dậy và cảm thấy hoàn toàn đổi khác. Đối với cô, hôm nay là một ngày như thế. Cái xác trong nhà tang lễ tại Potter đã gây cho cô cảm tưởng như một sự trượt đất kiến tạo vậy.
Clarice có bằng cấp về tâm lý học và tội phạm học. Cuộc đời đã dạy cho cô rằng cái thế giới gớm ghiếc này đã ung dung tiêu hủy vài vật nào đó. Nhưng cô thật sự chưa bao giờ thử nghiệm cả. Giờ thì cô biết rồi: đôi khi một đôi vợ chồng cho một đứa trẻ ra đời với khuôn mặt bình thường, nhưng trí tuệ nó méo mó đến mức sự thỏa mãn các ham muốn của nó kết thúc bằng những gì cô thấy được trên cái bàn bằng sứ tại Potter, Virginie, trong một căn phòng được trang trí bằng những bông hồng to như bắp cải. Nhưng cái trí tuệ đó chắc còn tệ hại hơn các báo cáo giảo nghiệm. Chắc nó phải cứng rắn hơn sự hiểu biết được khắc sâu trong đó, nếu không vết thương đó không bao giờ lành được.
Công việc thường ngày của trường không giúp gì được cho cô. Cô có cảm tưởng sự thật thường nhật vẫn còn ở đâu đó tại chân trời; cô nghe được tiếng thì thầm mênh mông của nó giống như tiếng xì xào của một sân vận động xa xôi. Một tiếng động nhỏ cũng làm cho cô giật mình như tiếng của một đám sinh viên di chuyển ngoài hành lang, bóng của một cụm mây lướt trên sàn nhà, tiếng của một chiếc phi cơ.
Sau các tiết học, Clarice chạy rất nhiều vòng quanh các đường, sau đó cô đi bơi, cho đến khi hình ảnh của những người chết trôi làm cho cô không thể chịu được nước nữa.
Cô xem chương trình tin tức lúc bảy giờ tối với Ardelia cùng một chục sinh viên khác. Lúc đầu không có tin tức gì về vụ cô con gái của Thượng nghị sĩ Martin bị bắt cóc, nhưng bản tin đó đến ngay sau tin về hội nghị về giải trừ quân bị tại Genève.
Nó bắt đầu bằng một cảnh Khu Biệt Thự Stonehinge, được quay với một đèn chiếu của xe cảnh sát. Giới truyền thông, muốn khai thác tối đa vụ này và vì chưa có gì mới cả, nên cánh phóng viên phỏng vấn lẫn nhau ngay bãi đậu xe. Các giới chức có thẩm quyền của Memphis và quận Shelby, khó chịu trước những hàng micro, cúi đầu trước sự tấn công tàn bạo và ồn ào của các đèn flash và hiệu ứng Larsen, nói ra những điều mà họ không hề biết. Khi các điều tra viên bước vào hoặc ra khỏi nhà của Catherine Baker Martin, đám phóng viên ảnh đang núp chui đầu qua khe cửa để sau đó lui bước thật mau giữa các máy quay phim mini của truyền hình.
Một tiếng reo hò ngắn vang lên trong phòng giải lao của trường khi gương mặt của Crawford hiện lên ở khung cửa sổ căn hộ. Clarice chỉ cười mỉm.
Không biết Buffalo Bill có xem chương trình này không. Hắn sẽ nghĩ gì khi thấy mặt của Crawford? Chắc hắn không biết ông là ai đâu.
Những người khác đều nghĩ thế nào Buffalo Bill cũng xem chương trình này. Kế đến người ta thấy thượng nghị sĩ Martin được quay trực diện, một mình trong căn phòng con gái bà; trên tường, một lá cờ hiệu của Trường Đại Học Southwestern, các hình trang trí và một bản văn về sự bình đẳng của các quyền lợi.
Bà là một người to lớn với những nét thô kệch, không duyên dáng.
- Tôi xin nói với người đang bắt giữ con gái tôi. - Bà tiến lại gần máy quay phim hơn, gây ra một hình ảnh mờ bất ngờ, và nói như thể bà không phải đang nói chuyện với một tên khủng bố. - Nếu anh muốn, anh có thể thả con gái tôi ra về bình yên vô sự. Nó tên Catherine. Nó rất dễ thương và tính tình rộng rãi. Tôi van xin anh, hãy thả con gái tôi đi; tôi van anh đấy, hãy thả nó ra và đừng có làm hại nó. Anh đang làm chủ tình hình. Chính anh là người chỉ huy. Tôi biết anh có thể biểu lộ tình thương và lòng trắc ẩn. Anh có thể che chở nó chống lại bất cứ điều gì có thể làm tổn thương đến nó. Anh có cơ hội thật tuyệt vời để chứng minh cho thế giới thấy được anh cũng có thể biểu hiện được lòng nhân từ của anh và anh cũng đủ cao thượng để đối xử với những người khác tốt hơn cách mà thế giới đã đối xử với anh. Con gái tôi tên Catherine.
Bà thượng nghị sĩ quay mặt khỏi máy quay trong khi đài truyền hình chiếu một đoạn phim cho thấy một bé gái đang chập chững bước đi, tay nắm vào mớ lông dày của một con chó chăn cừu xứ Êcốt.
- Phim này cho thấy Catherine khi nó còn bé. Hãy thả nó ra đi - bà thượng nghị sĩ lặp lại - Hãy thả nó ra bình yên vô sự, bất cứ ở đâu, và tôi xin hứa sẽ giúp đỡ và xem anh như người bạn thân thiết của tôi.
Tiếp đến là một loạt ảnh Catherine Martin lúc tám tuổi, trên tay lái của một chiếc thuyền buồm; chiếc tàu đang nằm trong ụ và người cha đang sơn tàu lại. Hai tấm hình mới chụp gần đây, một chụp đứng thẳng người còn cái kia thì chụp gần.
Khuôn mặt của bà thượng nghị sĩ chiếm lại màn hình.
- Tôi xin hứa trước toàn quốc tôi sẽ giúp đỡ anh không có bất cứ một hạn chế nào, mỗi khi anh cần. Tôi có đủ khả năng để làm việc đó. Tôi là Thượng nghị sĩ nước Hoa Kỳ, và là thành viên của Ủy Ban các lực lượng vũ trang. Tôi đang tham gia rất tích cực cái mà người ta gọi là “Chiến Tranh Các Vì Sao”. Nếu có một ai đó xen vào công việc của anh, tôi sẽ chấm dứt việc đó. Anh có thể gọi cho tôi bất cứ lúc nào, cả đêm lẫn ngày. Con gái tôi tên Catherine. Tôi van anh đấy, hãy cho thấy sức mạnh của anh đi. Hãy thả Catherine ra về bình yên vô sự.
- Trời ơi, thật độc đáo quá - Clarice thốt lên. Cô đang run như tàu lá. - Không thể nào tài hoa hơn thế được.
- Cái gì? Về chuyện “Chiến Tranh Các Vì Sao” hả? - Ardelia hỏi - Nếu người ngoài hành tinh đang cố kiểm soát những ý nghĩ của Buffalo Bill từ hành tinh xa xôi của chúng, ngài Martin có thể che chở cho hắn ta sao, đó là lời bịp bợm của bà ta sao?
Clarice gật đầu xác nhận.
- Những người tâm thần phân liệt kiểu hoang tưởng có loại ảo giác đó: họ nghĩ cái thế giới này bị đám người ngoài hành tinh kiểm soát. Nếu đó là kiểu suy nghĩ của Buffalo Bill, có thể điều này sẽ làm cho hắn chui ra khỏi hang. Bà ta phi thường quá phải không? Cho là điều tệ hại nhất đi nữa, hắn cũng cho Catherine được vài ngày an toàn. Cả luôn cảnh sát. Mà có thể không. Crawford nghĩ hắn sẽ giữ họ trong một thời gian ngày càng ngắn hơn. Nhưng người ta có thể thử điều này và cả nhiều việc khác nữa.
- “Tôi sẽ thử mọi cách, nếu nó liên quan đến con gái tôi”. Tại sao bà ta cứ lặp đi lặp lại tên “Catherine” vậy? Tại sao cứ nhắc mãi tên cô ta?
- Bà ta đang cố làm cho hắn thấy Catherine là một con người. Người ta nghĩ chắc hắn phải cố làm mất tính cách con người, phải xem các nạn nhân như những đồ vật để có thể mổ xẻ họ. Những tên giết người hàng loạt, ít ra một số trong bọn chúng được tra hỏi trong trại giam, đã nói như thế. Chúng có cảm tưởng như làm điều đó đối với một con búp bê vậy.
- Thế mày có nghĩ ai là tác giả của bài phát biểu của bà thượng nghị sĩ không?
- Có thể lắm, chắc là bác sĩ Bloom. - Người ta chiếu trên màn hình cuộc phỏng vấn bác sĩ Alan Bloom của trường Đại học Chicago, về những tên giết người hàng loạt vài tuần trước đây.
Ông từ chối so sánh Buffalo Bill với Francis Dolarhyde hoặc với Garrett Hobbs, hoặc với đám tội phạm khác cùng loại. Ông ta không dùng từ “Buffalo Bill”. Nói chung, ông ta không nói thêm gì mới, nhưng ông là một chuyên gia giỏi nhất về vấn đề đó, và đài truyền hình muốn cho thấy khuôn mặt ông ta.
Chương 13
Bài phóng sự kết thúc bằng vài câu sau cùng:
- Chúng ta không thể hăm he hắn với một cái gì đó tồi tệ hơn những gì hắn phải đương đầu hàng ngày. Nhưng những gì chúng ta có thể làm được, đó là kêu gọi hắn đến với chúng ta. Bằng tất cả lòng thành thật, chúng ta có thể hứa với hắn một phương pháp chữa trị thoải mái và một sự yên lòng hoàn toàn.
- Ai trong chúng ta mà không cần đến yên lòng chứ? - Ardelia bảo - Tao là người trước tiên. Một chút thiếu hụt êm dịu của sự sáng suốt của tao và vài việc tầm phào hời hợt, tao thích thế lắm. Ông ta không có nói gì với họ hết, nhưng chắc ông ta cũng không làm cho Buffalo Bill phải bực mình.
- Tao không thể không nghĩ đến con bé ở Virginie được; trong một lúc, cứ cho là trong ba mươi phút đi, và rồi sau đó cổ tao lại bị nghẹn. Màu sơn móng tay của cô ta, hãy giúp tao đừng nghiền ngẫm việc đó nữa.
Khi về phòng mình. Clarice thấy một tin nhắn trong thùng thư: Hãy gọi điện cho Albert Roden và một số điện thoại.
- Lý thuyết gì?
- Mày làm quen với hai anh chàng, và không phải anh chàng tốt gọi điện cho mày.
- Tao biết điều đó.
Điện thoại reo. ..
Mapp hất cây bút chì để ngay trước mũi cô ta.
- Nếu là Hot Bobby Lowrance, nói tao đang ở tại thư viện và tao sẽ gọi lại vào sáng mai.
Là Crawford gọi từ trên máy bay.
- Starling, hãy lấy những gì cần thiết cho hai đêm và đến gặp tôi ngay lập tức. À không cần đến túi dụng cụ đâu, chỉ cần quần áo thôi.
- Tôi sẽ gặp ông ở đâu?
- Tại Viện Smithsonian. - Và ông ta tiếp tục nói chuyên với một ai khác trước khi gác máy.
Mapp đưa đầu lên khỏi quyển Luật tố tụng tội phạm Liên Bang. Cô nhìn Clarice soạn túi xách, một trong hai con mắt to của cô nhắm lại.
- Tao không muốn xía vào chuyện của người khác - cô nói.
- Tao không nghi ngờ gì về điều đó - Clarice biết chuyện gì đang chờ mình.
Ardelia đã bảo đảm việc xuất bản tờ Tạp Chí Luật tại trường đại học Maryland bằng cách làm ban đêm. Cô ta đứng nhì trong lớp và ngốn gần hết các sách giáo khoa.
- Theo lý thuyết, mày có một kỳ thi về Luật Hình sự vào ngày mai và một kỳ kiểm tra thể dục trong hai ngày sắp tới. Ông Crawford phải biết mày có nguy cơ ở lại lớp. Nếu ông ta nói rằng - Làm công việc tốt đấy, sinh viên Starling - thì mày không được trả lời - Thật là vinh hạnh cho tôi - Mày phải nhìn thẳng vào bộ mặt tượng đá Phục Sinh của ông ta mà nói - Tôi mong rằng, chính ông phải làm sao cho tôi không phải bị đào tạo lại vì vắng mặt vài tiết học. Mày có nghe tao nói không?
- Tao có thể dự kỳ thi mà - Clarice đáp lại trong khi mở cây kẹp tóc bằng răng.
- Tốt thôi, nhưng nếu mày thi trượt là vì mày không có thời giờ học, thế mày có nghĩ họ sẽ không cho mày theo một khóa đào tạo lại hay sao? Mày xem thường tao quá phải không? Con ngốc kia, bọn chúng sẽ quăng mày vào trong phân như một con gà chết vậy! Sự biết ơn có mạng sống ngắn lắm, Clarice ơi!
Trên đường xa lộ bốn làn xe, Clarice lái chiếc Pinto cũ kỹ của mình với tốc độ mà các bánh dẫn không còn bám trên mặt đường. Mùi dầu nóng và ẩm mốc, tiếng lẻng kẻng của sắt vụn, tiếng cọt kẹt của thanh truyền động, làm cô nhớ lại những kỷ niệm xưa về chiếc pick-up của cha cô: cô chen vào sát người ông trong khi các anh chị mặc sức hò hét.
Ngay lúc này đây, khi cô đang lái xe trong đêm tối và các đường vạch trắng lướt nhanh dưới xe cô. Cô có dư thời giờ để suy nghĩ. Các nỗi sợ đang bao lấy cổ của cô, còn các kỷ niệm mới hơn thì chen vào cạnh cô được.
Clarice lo sợ người ta đã phát giác ra xác của Catherine Baker Martin. Khi khám phá ra lý lịch của cô ta, có thể Bill đã hốt hoảng. Có thể hắn đã giết chết cô và nhét một con côn trùng trong cuống họng cô ta.
Có thể Crawford đem con côn trùng đó về cho người ta nhận dạng. Nếu không, tại sao lại hẹn tại Viện Smithsonian? Nhưng bất cứ người nào cũng có thể mang con vật đó đến viện bảo tàng mà, một nhân viên đưa thư của FBI chẳng hạn. Và ông ta lại còn bảo chuẩn bị đồ ngủ cho hai đêm.
Cô bắt một làn sóng điện dành cho tin tức và gặp ngay lúc thông báo thời tiết. Không có thông tin mới. Chỉ là sự lặp lại nhàm chán của của chương trình truyền hình lúc bảy giờ tối. Con gái của thượng nghị sị Martin đã mất tích. Người ta tìm được cái áo cánh của cô bị cắt đôi phía sau lưng, theo kiểu của Buffalo Bill. Không có nhân chứng. Nạn nhân tại Virginie vẫn chưa được nhận diện.
Bang Virginie. Trong những kỷ niệm của cô về nhà tang lễ ở Potter. Có một điều đáng nhớ nhất. Một cái gì đó bền vững sáng chói giữa các lời tiết lộ mà cô có thể giữ chặt nó như một lá bùa hộ mệnh. Tại nơi bồn rửa kia, cô đã có được sức mạnh khi nhớ về kỷ niệm của mẹ cô. Clarice đã lớn lên giữa những người anh và có được kinh nghiệm nhờ các đặc ân đến từ người cha quá cố; cô rất ngạc nhiên, xúc động vì cái kho tàng mà chính cô phải tự khám phá ra.
Cô đậu chiếc Pinto ở sau tòa nhà J. Edgar Hoover. Hai toán nhân viên truyền hình đang cắm chốt trên lề; trước ánh sáng của các đèn chiếu, đám phóng viên có vẻ quá chỉnh tề. Họ thực hiện các phóng sự của họ trước hình nền của Bộ chỉ huy FBI. Clarice tránh vùng sáng đó và đi bộ trong khoảng cách vài trăm mét ngăn cách Viện Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Smithsonian.
Vài cửa sổ còn bật đèn sáng trên cái tòa nhà cũ kỹ đó. Một xe tải con của cảnh sát quận Baltimore đang đậu trên lối đi hình vòng cung. Sau cô, Jeff, người tài xế của Crawford đang chờ trên một chiếc xe tải con dùng trong việc theo dõi. Khi anh ta thấy Clarice đến, anh ta nói cái gì đó trên bộ đàm.
- Chúng ta không thể hăm he hắn với một cái gì đó tồi tệ hơn những gì hắn phải đương đầu hàng ngày. Nhưng những gì chúng ta có thể làm được, đó là kêu gọi hắn đến với chúng ta. Bằng tất cả lòng thành thật, chúng ta có thể hứa với hắn một phương pháp chữa trị thoải mái và một sự yên lòng hoàn toàn.
- Ai trong chúng ta mà không cần đến yên lòng chứ? - Ardelia bảo - Tao là người trước tiên. Một chút thiếu hụt êm dịu của sự sáng suốt của tao và vài việc tầm phào hời hợt, tao thích thế lắm. Ông ta không có nói gì với họ hết, nhưng chắc ông ta cũng không làm cho Buffalo Bill phải bực mình.
- Tao không thể không nghĩ đến con bé ở Virginie được; trong một lúc, cứ cho là trong ba mươi phút đi, và rồi sau đó cổ tao lại bị nghẹn. Màu sơn móng tay của cô ta, hãy giúp tao đừng nghiền ngẫm việc đó nữa.
Khi về phòng mình. Clarice thấy một tin nhắn trong thùng thư: Hãy gọi điện cho Albert Roden và một số điện thoại.
- Lý thuyết gì?
- Mày làm quen với hai anh chàng, và không phải anh chàng tốt gọi điện cho mày.
- Tao biết điều đó.
Điện thoại reo. ..
Mapp hất cây bút chì để ngay trước mũi cô ta.
- Nếu là Hot Bobby Lowrance, nói tao đang ở tại thư viện và tao sẽ gọi lại vào sáng mai.
Là Crawford gọi từ trên máy bay.
- Starling, hãy lấy những gì cần thiết cho hai đêm và đến gặp tôi ngay lập tức. À không cần đến túi dụng cụ đâu, chỉ cần quần áo thôi.
- Tôi sẽ gặp ông ở đâu?
- Tại Viện Smithsonian. - Và ông ta tiếp tục nói chuyên với một ai khác trước khi gác máy.
Mapp đưa đầu lên khỏi quyển Luật tố tụng tội phạm Liên Bang. Cô nhìn Clarice soạn túi xách, một trong hai con mắt to của cô nhắm lại.
- Tao không muốn xía vào chuyện của người khác - cô nói.
- Tao không nghi ngờ gì về điều đó - Clarice biết chuyện gì đang chờ mình.
Ardelia đã bảo đảm việc xuất bản tờ Tạp Chí Luật tại trường đại học Maryland bằng cách làm ban đêm. Cô ta đứng nhì trong lớp và ngốn gần hết các sách giáo khoa.
- Theo lý thuyết, mày có một kỳ thi về Luật Hình sự vào ngày mai và một kỳ kiểm tra thể dục trong hai ngày sắp tới. Ông Crawford phải biết mày có nguy cơ ở lại lớp. Nếu ông ta nói rằng - Làm công việc tốt đấy, sinh viên Starling - thì mày không được trả lời - Thật là vinh hạnh cho tôi - Mày phải nhìn thẳng vào bộ mặt tượng đá Phục Sinh của ông ta mà nói - Tôi mong rằng, chính ông phải làm sao cho tôi không phải bị đào tạo lại vì vắng mặt vài tiết học. Mày có nghe tao nói không?
- Tao có thể dự kỳ thi mà - Clarice đáp lại trong khi mở cây kẹp tóc bằng răng.
- Tốt thôi, nhưng nếu mày thi trượt là vì mày không có thời giờ học, thế mày có nghĩ họ sẽ không cho mày theo một khóa đào tạo lại hay sao? Mày xem thường tao quá phải không? Con ngốc kia, bọn chúng sẽ quăng mày vào trong phân như một con gà chết vậy! Sự biết ơn có mạng sống ngắn lắm, Clarice ơi!
Trên đường xa lộ bốn làn xe, Clarice lái chiếc Pinto cũ kỹ của mình với tốc độ mà các bánh dẫn không còn bám trên mặt đường. Mùi dầu nóng và ẩm mốc, tiếng lẻng kẻng của sắt vụn, tiếng cọt kẹt của thanh truyền động, làm cô nhớ lại những kỷ niệm xưa về chiếc pick-up của cha cô: cô chen vào sát người ông trong khi các anh chị mặc sức hò hét.
Ngay lúc này đây, khi cô đang lái xe trong đêm tối và các đường vạch trắng lướt nhanh dưới xe cô. Cô có dư thời giờ để suy nghĩ. Các nỗi sợ đang bao lấy cổ của cô, còn các kỷ niệm mới hơn thì chen vào cạnh cô được.
Clarice lo sợ người ta đã phát giác ra xác của Catherine Baker Martin. Khi khám phá ra lý lịch của cô ta, có thể Bill đã hốt hoảng. Có thể hắn đã giết chết cô và nhét một con côn trùng trong cuống họng cô ta.
Có thể Crawford đem con côn trùng đó về cho người ta nhận dạng. Nếu không, tại sao lại hẹn tại Viện Smithsonian? Nhưng bất cứ người nào cũng có thể mang con vật đó đến viện bảo tàng mà, một nhân viên đưa thư của FBI chẳng hạn. Và ông ta lại còn bảo chuẩn bị đồ ngủ cho hai đêm.
Cô bắt một làn sóng điện dành cho tin tức và gặp ngay lúc thông báo thời tiết. Không có thông tin mới. Chỉ là sự lặp lại nhàm chán của của chương trình truyền hình lúc bảy giờ tối. Con gái của thượng nghị sị Martin đã mất tích. Người ta tìm được cái áo cánh của cô bị cắt đôi phía sau lưng, theo kiểu của Buffalo Bill. Không có nhân chứng. Nạn nhân tại Virginie vẫn chưa được nhận diện.
Bang Virginie. Trong những kỷ niệm của cô về nhà tang lễ ở Potter. Có một điều đáng nhớ nhất. Một cái gì đó bền vững sáng chói giữa các lời tiết lộ mà cô có thể giữ chặt nó như một lá bùa hộ mệnh. Tại nơi bồn rửa kia, cô đã có được sức mạnh khi nhớ về kỷ niệm của mẹ cô. Clarice đã lớn lên giữa những người anh và có được kinh nghiệm nhờ các đặc ân đến từ người cha quá cố; cô rất ngạc nhiên, xúc động vì cái kho tàng mà chính cô phải tự khám phá ra.
Cô đậu chiếc Pinto ở sau tòa nhà J. Edgar Hoover. Hai toán nhân viên truyền hình đang cắm chốt trên lề; trước ánh sáng của các đèn chiếu, đám phóng viên có vẻ quá chỉnh tề. Họ thực hiện các phóng sự của họ trước hình nền của Bộ chỉ huy FBI. Clarice tránh vùng sáng đó và đi bộ trong khoảng cách vài trăm mét ngăn cách Viện Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Smithsonian.
Vài cửa sổ còn bật đèn sáng trên cái tòa nhà cũ kỹ đó. Một xe tải con của cảnh sát quận Baltimore đang đậu trên lối đi hình vòng cung. Sau cô, Jeff, người tài xế của Crawford đang chờ trên một chiếc xe tải con dùng trong việc theo dõi. Khi anh ta thấy Clarice đến, anh ta nói cái gì đó trên bộ đàm.
Người bảo vệ đưa Clarice lên tầng hai, ngay trên con voi trắng được nhồi bông của viện. Cánh cửa của cầu thang máy mở ra trước cái hành lang rộng lớn trong ánh đèn yếu ớt, nơi Crawford đang đứng chờ một mình, hai tay thọc trong túi áo khoác.
- Chào cô Starling.
- Xin chào ông - cô đáp lại.
Crawford nói với người bảo vệ đứng sau cô.
- Cám ơn anh, chúng tôi biết đường rồi.
Vai kề vai, Crawford và Clarice bước đi giữa các chồng thùng đựng mẫu nhân chủng học. Vài ngọn đèn hiếm hoi vẫn còn sáng. Với bộ dạng hơi khòm, vẻ suy tư của Crawford, Clarice ý thức rằng Crawford muốn đặt tay lên vai cô.
Cô chờ cho ông nói một cái gì đó. Cuối cùng cô cũng đứng lại, hai tay thọc trong túi, và hai người đối mặt nhau trong sự im lặng của đống hài cốt.
Crawford đứng tựa vào chồng thùng và hít một hơi thật sâu.
- Có thể Catherine Martin vẫn còn sống - Ông nói.
Clarice gật đầu nhưng không ngước mặt lên. Có thể ông ta sẽ gặp ít khó khăn hơn để nói chuyện với cô nếu cô không nhìn ông. Ông ta có vẻ cứng rắn đấy, nhưng có một cái gì đó đang làm ông lo lắng. Cô tự hỏi không biết vợ ông ta chết chưa. Hay chỉ đơn thuần vì ông ta quá mệt sau một ngày ở cạnh bà mẹ đau khổ của Catherine.
- Không có một dấu vết gì tại Memphis cả - Ông nói - Tôi nghĩ chắc hắn đã bắt cóc cô ta tại bãi đậu xe. Không ai thấy gì hết. Cô ta đã vào trong nhà rồi, sau đó cô ta trở ra vì một lý do nào đó. Cô ta không định ở ngoài lâu, vì cô ta để cánh cửa hé mở bằng cách kéo chốt để cho cánh cửa không đóng lại. Chùm chìa khóa của cô ta còn để trên cái tivi. Trong căn hộ, không thứ gì bị xáo trộn cả. Tôi nghĩ chắc cô ta ở trong nhà không lâu. Cô ta còn chưa bước đến máy trả lời tự động, vẫn còn đang nhấp nháy trong phòng ngủ cô ta cho đến khi người bạn trai gọi cảnh sát. - Crawford thờ ơ đặt bàn tay trên một thùng hài cốt, nhưng sau đó rút lại thật mau.
- Như vậy, cô ta vẫn còn ở trong tay hắn. Đám truyền thông đại chúng đã đồng ý không phát đi các thông tin này trong giờ tin tức buổi tối, bác sĩ Bloom nghĩ rằng điều đó sẽ khiến cho hắn giết cô ta mau hơn đấy. Nhưng bằng cách nào đó, vài tờ lá cải sẽ làm thôi.
- Trong lần bắt cóc trước, người ta tìm thấy khá sớm một y phục bị cắt đôi ở sau lưng để có thể xác định đây là một nạn nhân của Buffalo Bill, trong lúc cô ta vẫn còn sống. Clarice nhớ lại trình tự ngược thời gian được đóng khung đăng trên trang nhất của các báo lá cải giật gân. Mười tám ngày trôi qua trước khi người ta tìm thấy được cái xác trôi trên một con sông.
- Catherine Baker đang ở trong phòng hóa trang của Bill và có thể chúng ta có một tuần, Starling. Mức tối đa vì Bloom cho rằng kỳ hạn càng ngày càng bị rút ngắn lại.
Đối với Crawford, đây quả là một bài diễn văn dài. Cái trích dẫn mang vẻ sân khấu của “phòng hóa trang” làm cho Clarice bực mình, cô đang chờ ông đề cập đến điểm chính.
- Nhưng cô biết không, Staring, lần này có thể chúng ta có một ít may mắn đây.
Clarice ngước mắt lên, chăm chú và tràn đầy hy vọng.
- Chúng ta tìm được một con côn trùng khác. Mấy người bạn cô, Pilcher và… người kia…
- Roden.
- … Phải, họ đang nhận diện nó.
- Ở đâu vậy?… tại Cincinnati à? Cô gái mà chúng ta đang còn giữ trong tủ lạnh à?
- Không. Hãy đi theo tôi, tôi sẽ chỉ cho. Tôi rất muốn biết cô nghĩ gì.
- Khoa côn trùng học nằm ở bên kia, ông Crawford.
- Tôi biết mà.
Họ đến cửa khoa nhân chủng học. Ánh đèn và tiếng nói xuyên qua cửa kính. Cô bước vào.
Ở ngay giữa căn phòng, ba người đàn ông trong áo choàng trắng đang làm việc quanh cái bàn dưới ánh sáng chói chang. Clarice không thấy họ đang làm gì. Jerry Burroughs của Khoa thái độ, nhìn qua vai của họ và ghi chép. Một mùi quen quen bao phủ căn phòng.
Một trong ba người đó đứng lên để bước đến bồn rửa và cô mới thấy được một cái mâm bằng inox được đặt trên bục lát, “Klaus”, cái đầu mà cô tìm được trong kho hàng tại Baltimore.
- Con côn trùng nằm trong cuống họng của Klaus - Crawford nói - Chờ một chút, Starling. Thế nào Jerry, anh đã liên lạc được trung tâm chưa?
Burroughs đọc các ghi chú của anh ta trong điện thoại. Anh lấy tay che micro lại.
- Rồi Jack, họ đang sấy khô hình của Klaus.
Crawford chụp lấy điện thoại.
- Bobby, không cần phải chờ Interpol. Hãy chuyển tấm hình bằng điện báo cùng bản báo cáo y khoa, cho các nước Bắc Âu, Bộ chỉ huy RAF và Hà Lan. Anh nhớ nói Klaus có thể là một thủy thủ tàu buôn. Anh cũng nhớ nếu Sở sức khỏe quốc gia có thể có một hồ sơ về vụ bể gò má. Hãy gọi cái đó, là sao rồi nhỉ… cung gò má. Chuyển luôn hai lược đồ răng, một cho toàn thế giới và một cho Hiệp hội răng. Họ sẽ định cho nó một tuổi, nhưng hãy nhấn mạnh rằng đây chỉ là một phỏng đoán, vì người ta không thể làm gì hơn được với các đường nối của sọ. - Nói xong, ông đưa điện thoại lại cho Burroughs. - Đồ đạc của cô đâu rồi, Starling?
- Trong phòng bảo vệ.
- Chính Viện John Hopkins tìm ra con côn trùng - Crawford cho biết trong khi họ chờ thang máy - Họ khám nghiệm cái đầu cho cảnh sát Baltimore. Nó nằm trong cuống họng giống y đúc với con côn trùng tại Potter.
- Giống con côn trùng tại Potter.
- Cô cười à. Viện John Hopkins đã tìm thấy trong ngày hôm nay vào lúc mười chín giờ. Ông công tố viên gọi điện cho tôi trong lúc tôi đang ở trên máy bay. Họ đã gởi hết mọi thứ, Klaus và tất cả những thứ khác để chúng ta có thể xem xét tại chỗ. Họ cũng muốn biết ý kiến của bác sĩ Angel về tuổi của Klaus và biết hắn bị bể gò má vào lúc mấy tuổi. Họ làm giống như ta, họ tham khảo ý kiến của Viện Smithsonian.
- Hãy chờ xem, tôi phải suy nghĩ mới được. Ông vừa nói có thể Buffalo Bill đã giết chết Klaus cách đây nhiều năm rồi phải không?
- Cô cho là gượng gạo quá có phải không? Một sự trùng hợp quá kỳ lạ phải không?
- Ngay lúc đó thì đúng thế.
- Hãy nghiền ngẫm thêm một chút nữa coi.
- Chính nhờ bác sĩ Lecter mà tôi tìm được Klaus.
- Rồi sao.
- Lecter nói người bệnh nhân của ông, Benjamin Raspail, khẳng định chính mình đã hạ sát hắn. Nhưng Lecter nói đây chỉ là một vụ nghẹt thở tính dục ngẫu nhiên thôi.
- Đó là điều ông ta nói.
- Ông nghĩ rằng bác sĩ Lecter biết vì sao Klaus chết mà không phải do Raspail và cũng không phải là một vụ nghẹt thở do một hành vi tính dục, phải không?
- Klaus có một con côn trùng trong cuống họng, cô gái ở Potter có một con côn trùng trong cuống họng. Đây là lần đầu tôi thấy một vụ như thế này. Tôi chưa bao giờ nghe nói và cũng chưa hề đọc bất cứ ở đâu. Thế cô nghĩ gì?
- Tôi đang nghĩ về việc ông bảo tôi đem quần áo cho hai ngày. Ông muốn tôi đi hỏi Lecter có phải không?
- Cô là người duy nhất ông ta chịu nói chuyện. - Crawford có vẻ buồn khi ông nói thêm - Tôi cho là cô đồng ý chứ?
Cô chỉ gật đầu.
- Thế thì đi, chúng ta sẽ nói tiếp trên đường đi.
- Chào cô Starling.
- Xin chào ông - cô đáp lại.
Crawford nói với người bảo vệ đứng sau cô.
- Cám ơn anh, chúng tôi biết đường rồi.
Vai kề vai, Crawford và Clarice bước đi giữa các chồng thùng đựng mẫu nhân chủng học. Vài ngọn đèn hiếm hoi vẫn còn sáng. Với bộ dạng hơi khòm, vẻ suy tư của Crawford, Clarice ý thức rằng Crawford muốn đặt tay lên vai cô.
Cô chờ cho ông nói một cái gì đó. Cuối cùng cô cũng đứng lại, hai tay thọc trong túi, và hai người đối mặt nhau trong sự im lặng của đống hài cốt.
Crawford đứng tựa vào chồng thùng và hít một hơi thật sâu.
- Có thể Catherine Martin vẫn còn sống - Ông nói.
Clarice gật đầu nhưng không ngước mặt lên. Có thể ông ta sẽ gặp ít khó khăn hơn để nói chuyện với cô nếu cô không nhìn ông. Ông ta có vẻ cứng rắn đấy, nhưng có một cái gì đó đang làm ông lo lắng. Cô tự hỏi không biết vợ ông ta chết chưa. Hay chỉ đơn thuần vì ông ta quá mệt sau một ngày ở cạnh bà mẹ đau khổ của Catherine.
- Không có một dấu vết gì tại Memphis cả - Ông nói - Tôi nghĩ chắc hắn đã bắt cóc cô ta tại bãi đậu xe. Không ai thấy gì hết. Cô ta đã vào trong nhà rồi, sau đó cô ta trở ra vì một lý do nào đó. Cô ta không định ở ngoài lâu, vì cô ta để cánh cửa hé mở bằng cách kéo chốt để cho cánh cửa không đóng lại. Chùm chìa khóa của cô ta còn để trên cái tivi. Trong căn hộ, không thứ gì bị xáo trộn cả. Tôi nghĩ chắc cô ta ở trong nhà không lâu. Cô ta còn chưa bước đến máy trả lời tự động, vẫn còn đang nhấp nháy trong phòng ngủ cô ta cho đến khi người bạn trai gọi cảnh sát. - Crawford thờ ơ đặt bàn tay trên một thùng hài cốt, nhưng sau đó rút lại thật mau.
- Như vậy, cô ta vẫn còn ở trong tay hắn. Đám truyền thông đại chúng đã đồng ý không phát đi các thông tin này trong giờ tin tức buổi tối, bác sĩ Bloom nghĩ rằng điều đó sẽ khiến cho hắn giết cô ta mau hơn đấy. Nhưng bằng cách nào đó, vài tờ lá cải sẽ làm thôi.
- Trong lần bắt cóc trước, người ta tìm thấy khá sớm một y phục bị cắt đôi ở sau lưng để có thể xác định đây là một nạn nhân của Buffalo Bill, trong lúc cô ta vẫn còn sống. Clarice nhớ lại trình tự ngược thời gian được đóng khung đăng trên trang nhất của các báo lá cải giật gân. Mười tám ngày trôi qua trước khi người ta tìm thấy được cái xác trôi trên một con sông.
- Catherine Baker đang ở trong phòng hóa trang của Bill và có thể chúng ta có một tuần, Starling. Mức tối đa vì Bloom cho rằng kỳ hạn càng ngày càng bị rút ngắn lại.
Đối với Crawford, đây quả là một bài diễn văn dài. Cái trích dẫn mang vẻ sân khấu của “phòng hóa trang” làm cho Clarice bực mình, cô đang chờ ông đề cập đến điểm chính.
- Nhưng cô biết không, Staring, lần này có thể chúng ta có một ít may mắn đây.
Clarice ngước mắt lên, chăm chú và tràn đầy hy vọng.
- Chúng ta tìm được một con côn trùng khác. Mấy người bạn cô, Pilcher và… người kia…
- Roden.
- … Phải, họ đang nhận diện nó.
- Ở đâu vậy?… tại Cincinnati à? Cô gái mà chúng ta đang còn giữ trong tủ lạnh à?
- Không. Hãy đi theo tôi, tôi sẽ chỉ cho. Tôi rất muốn biết cô nghĩ gì.
- Khoa côn trùng học nằm ở bên kia, ông Crawford.
- Tôi biết mà.
Họ đến cửa khoa nhân chủng học. Ánh đèn và tiếng nói xuyên qua cửa kính. Cô bước vào.
Ở ngay giữa căn phòng, ba người đàn ông trong áo choàng trắng đang làm việc quanh cái bàn dưới ánh sáng chói chang. Clarice không thấy họ đang làm gì. Jerry Burroughs của Khoa thái độ, nhìn qua vai của họ và ghi chép. Một mùi quen quen bao phủ căn phòng.
Một trong ba người đó đứng lên để bước đến bồn rửa và cô mới thấy được một cái mâm bằng inox được đặt trên bục lát, “Klaus”, cái đầu mà cô tìm được trong kho hàng tại Baltimore.
- Con côn trùng nằm trong cuống họng của Klaus - Crawford nói - Chờ một chút, Starling. Thế nào Jerry, anh đã liên lạc được trung tâm chưa?
Burroughs đọc các ghi chú của anh ta trong điện thoại. Anh lấy tay che micro lại.
- Rồi Jack, họ đang sấy khô hình của Klaus.
Crawford chụp lấy điện thoại.
- Bobby, không cần phải chờ Interpol. Hãy chuyển tấm hình bằng điện báo cùng bản báo cáo y khoa, cho các nước Bắc Âu, Bộ chỉ huy RAF và Hà Lan. Anh nhớ nói Klaus có thể là một thủy thủ tàu buôn. Anh cũng nhớ nếu Sở sức khỏe quốc gia có thể có một hồ sơ về vụ bể gò má. Hãy gọi cái đó, là sao rồi nhỉ… cung gò má. Chuyển luôn hai lược đồ răng, một cho toàn thế giới và một cho Hiệp hội răng. Họ sẽ định cho nó một tuổi, nhưng hãy nhấn mạnh rằng đây chỉ là một phỏng đoán, vì người ta không thể làm gì hơn được với các đường nối của sọ. - Nói xong, ông đưa điện thoại lại cho Burroughs. - Đồ đạc của cô đâu rồi, Starling?
- Trong phòng bảo vệ.
- Chính Viện John Hopkins tìm ra con côn trùng - Crawford cho biết trong khi họ chờ thang máy - Họ khám nghiệm cái đầu cho cảnh sát Baltimore. Nó nằm trong cuống họng giống y đúc với con côn trùng tại Potter.
- Giống con côn trùng tại Potter.
- Cô cười à. Viện John Hopkins đã tìm thấy trong ngày hôm nay vào lúc mười chín giờ. Ông công tố viên gọi điện cho tôi trong lúc tôi đang ở trên máy bay. Họ đã gởi hết mọi thứ, Klaus và tất cả những thứ khác để chúng ta có thể xem xét tại chỗ. Họ cũng muốn biết ý kiến của bác sĩ Angel về tuổi của Klaus và biết hắn bị bể gò má vào lúc mấy tuổi. Họ làm giống như ta, họ tham khảo ý kiến của Viện Smithsonian.
- Hãy chờ xem, tôi phải suy nghĩ mới được. Ông vừa nói có thể Buffalo Bill đã giết chết Klaus cách đây nhiều năm rồi phải không?
- Cô cho là gượng gạo quá có phải không? Một sự trùng hợp quá kỳ lạ phải không?
- Ngay lúc đó thì đúng thế.
- Hãy nghiền ngẫm thêm một chút nữa coi.
- Chính nhờ bác sĩ Lecter mà tôi tìm được Klaus.
- Rồi sao.
- Lecter nói người bệnh nhân của ông, Benjamin Raspail, khẳng định chính mình đã hạ sát hắn. Nhưng Lecter nói đây chỉ là một vụ nghẹt thở tính dục ngẫu nhiên thôi.
- Đó là điều ông ta nói.
- Ông nghĩ rằng bác sĩ Lecter biết vì sao Klaus chết mà không phải do Raspail và cũng không phải là một vụ nghẹt thở do một hành vi tính dục, phải không?
- Klaus có một con côn trùng trong cuống họng, cô gái ở Potter có một con côn trùng trong cuống họng. Đây là lần đầu tôi thấy một vụ như thế này. Tôi chưa bao giờ nghe nói và cũng chưa hề đọc bất cứ ở đâu. Thế cô nghĩ gì?
- Tôi đang nghĩ về việc ông bảo tôi đem quần áo cho hai ngày. Ông muốn tôi đi hỏi Lecter có phải không?
- Cô là người duy nhất ông ta chịu nói chuyện. - Crawford có vẻ buồn khi ông nói thêm - Tôi cho là cô đồng ý chứ?
Cô chỉ gật đầu.
- Thế thì đi, chúng ta sẽ nói tiếp trên đường đi.
Chương 14
Trước khi chúng tôi bắt Lecter về tội giết người, ông ta đã hành nghề thật xuất sắc khoa tâm lý học trong nhiều năm - Crawford nói, - Ông ta đã làm nhiều cuộc giám định tâm lý học cho các tòa án của Maryland, Virginie và nhiều tiểu bang khác của miền đông duyên hải. Ông ta đã gặp rất nhiều kẻ điên phạm tội. Ai có thể biết ông ta có thả một tên nào đó, chỉ cho vui thôi. Đó có thể là nguồn thông tin của ông ta. Vả lại ông ta biết Raspail rất rõ, mà hắn có thể tiết lộ cho ông ta nhiều thứ trong những buổi chữa trị. Có thể hắn đã nói cho ông ta biết ai đã giết Klaus.
Crawford ngồi đối mặt với Clarice ở đằng sau chiếc xe tải đang chạy hết tốc lực trên quốc lộ 95 về hướng Baltimore. Chắc Jeff đã nhận được lệnh phải chạy hết ga.
- Lecter đã đề nghị sự giúp đỡ của ông ta mà không cần tôi phải lên tiếng. Ông ta đã làm việc đó và nó không mang lại kết quả gì khả quan cả; lần cuối cùng ông ta “giúp đỡ” Will Graham nhận lấy mấy nhát dao trên mặt, bởi vì việc đó làm cho ông ta vui.
- Nhưng với một con côn trùng trong họng của Klaus, một con côn trùng trong họng của cô gái ở Potter, thì tất nhiên tôi phải quan tâm rồi. Alan Bloom chưa hề nghe nói đến điều này, cả tôi cũng thế. Vậy cô có gặp một việc gì tương tự như thế không, Starling? Mấy lúc sau này, cô đọc các tạp chí nhiều hơn tôi mà.
- Không, chưa bao giờ. Nhét một vật gì đó thì có, chứ một con côn trùng thì không.
- Để bắt đầu, có hai việc. Trước nhất, chúng ta đặt giả thuyết cho rằng bác sĩ Lecter thật sự biết một cái gì đó cụ thể. Kế đến, chúng ta biết là ông ta chỉ tìm thú vui cho mình thôi. Chúng ta không được quên điều này. Phải làm sao cho ông ta muốn cho Buffalo Bill bị bắt trước khi hắn giết chết Catherine Martin. Thú vui và các lợi ích ông ta có thể rút ra được, phải được xem xét theo chiều hướng đó. Chúng ta không có cách nào để hăm dọa ông ta được, người ta đã lấy đi hết các sách và bàn cầu của ông ta rồi.
- Chuyện gì sẽ xảy ra nếu chúng ta trình hết sự việc và đề nghị tặng cho ông ta một cái gì đó, một phòng giam có cửa sổ chẳng hạn? Đó là thứ ông ta yêu cầu khi đề nghị giúp chúng ta.
- Giúp chúng ta. Không phải tố giác một người nào đó. Việc tố giác không cho phép ông ta biểu hiện sự hiểu biết của mình. Dường như cô chưa thuyết phục được ông ta lắm. Cô muốn nói sự thật cho ông ta biết. Hãy nghe đây, Lecter không có vội. Ông ta theo dõi vụ này như một trận cầu. Nếu chúng ta yêu cầu ông ta tố giác, ông ta sẽ chờ đợi. Ông ta không làm ngay đâu.
- Dù để nhận được một phần thưởng? Một cái gì đó mà ông ta sẽ không có được nếu Catherine Martin chết đi?
- Có thể chúng ta sẽ nói là chúng ta biết ông ta biết tên thủ phạm và muốn ông ta tố giác hắn. Điều làm cho ông ta vui hơn nữa là cố gắng nhớ lại, trong nhiều ngày liền, làm kích thích niềm hy vọng của thượng nghị sĩ Martin và để cho Catherine phải chết. Sau đó ông ta hành hạ bà mẹ của nạn nhân kế tiếp và kế tiếp, làm như thể ông ta sắp nhớ ra vậy, mà điều này còn lý thú hơn một cửa sổ. Ông ta sống nhờ những thứ đó, sống bằng thứ đó.
- Starling biết không, tôi không nghĩ con người khi già sẽ khôn ngoan hơn, nhưng người ta tránh được nhiều thứ. Và điều đó là có thể với chúng ta trong trường hợp này.
- Như vậy, tôi phải làm cho Lecter nghĩ rằng tôi đến gặp ông ta đơn thuần vì sự trực giác và các hiểu biết của ông ta.
- Đúng thế.
- Tại sao ông nói ra hết tất cả các lời giải thích đó? Tại sao không chỉ đơn giản nói cho tôi biết những gì tôi phải hỏi ông ta?
- Tôi rất thành thật với cô. Và tôi cũng sẽ làm như thế một khi cô có được một vị trí quan trọng, về lâu về dài, chỉ có điều đó mới tồn tại thôi.
- Vậy tôi không được nói việc tìm thấy con côn trùng trong cuống họng của Klaus và cả mối liên hệ giữa Klaus với và Buffalo Bill.
- Không. Cô trở lại gặp ông ta bởi sự kiện ông ta tiên đoán việc Buffalo Bill lột da đầu đã gây ấn tượng mạnh cho cô. Tôi không muốn nghe nói đến ông ta nữa, và cả Bloom cũng thế. Nhưng tôi cho cô toàn quyền quyết định. Cô có quyền cung cấp cho ông ta vài đặc ân nào đó mà chỉ có ngài thượng nghị sĩ Martin mới có thể có được. Ông ta phải hiểu là ông ta phải gấp rút lên vì lời đề nghị đó sẽ chấm dứt nếu Catherine chết. Trong trường hợp này bà thượng nghị sĩ sẽ không còn quan tâm đến ông ta nữa. Nếu ông ta thất bại, chính là vì ông ta không đủ khôn lanh và không biết đủ nhiều để thực hiện được những gì ông ta hứa, chớ không phải vì ông ta nói sai các điều tiết lộ của chính ông ta để chống lại chúng ta.
- Thế bà thượng nghị sị sẽ không còn quan tâm đến ông ta nữa à?
- Tốt hơn hết, dưới lời tuyên thệ, cô có thể nói là không biết câu trả lời của vấn đề này.
- Tôi hiểu rồi. Như vậy là bà thượng nghị sĩ chưa biết gì hết. Ông này gan cùng mình. Hiển nhiên ông rất ngại một sự can thiệp, sợ việc bà thượng nghị sĩ phạm sai lầm khi muốn liên hệ trực tiếp với bác sĩ Lecter.
- Cô tin như thế thật sao?
- Đúng vậy. Làm sao ông ta có thể hướng chúng ta khá rõ ràng đến Buffalo Bill mà không cho thấy ông ta biết chính xác rất nhiều việc được? Làm sao ông ta có thể làm được điều đó chỉ với trực giác cùng những hiểu biết theo lý thuyết mà thôi?
- Tôi không rõ nữa, Starling. Có thể ông ta có dư thời giờ để suy nghĩ. Thời gian cần thiết để chúng ta tìm thấy nạn nhân thứ sáu của chúng ta.
Điện thoại có máy gây nhiễu reo lên và nhấp nháy cho một loạt cuộc gọi mà Crawford đã yêu cầu với tổng đài của FBI.
Trong suốt hai mươi phút sau đó, ông ta nói chuyện với các thanh tra cảnh sát Hà Lan và Hiến binh Hoàng gia mà ông ta quen, một cấp chỉ huy cảnh sát Đan Mạch đã từng học ở Quantico, đang làm phụ tá cho ông sếp Ban An ninh Chinh trị của cảnh sát Đan Mạch. Ông làm cho Clarice phải ngạc nhiên khi nói chuyện bằng tiếng Pháp với ban trực đêm của cảnh sát Bỉ. Với mọi người, ông cắt nghĩa rằng phải nhận dạng Klaus và các đồng bọn càng sớm càng tốt. Mỗi thẩm quyền xét xử đã nhận được lời yêu cầu trên máy télex riêng của Interpol, nhưng cộng một cuộc gọi trực tiếp, nó sẽ không nằm tại máy trong nhiều giờ liền.
Clarice hiểu rằng Crawford sử dụng chiếc xe tải này vì hệ thống điện thoại vô tuyến có trang bị hệ thống gây nhiễu, nhưng ông sẽ làm việc hữu hiệu tại văn phòng của mình. Ông phải làm trò ảo thuật với cuốn sổ tay con trên cái bàn tí xíu trong ánh sáng yếu ớt và cả hai đều tưng lên mỗi khi chiếc xe cán lên dải nhựa đường. Clarice chưa có nhiều kinh nghiệm chiến trường, nhưng cô biết, thông thường cấp trưởng của một sở không bao giờ di chuyển trên một chiếc xe tải cho một cuộc chạy đua như thế này. Ông vẫn có thể ra lệnh bằng điện thoại vô tuyến như thường, nhưng cô rất mừng là ông đã không làm như thế.
Clarice có cảm tưởng sự im lặng và yên tĩnh của chiếc xe, thời gian ấn định cho công tác này được thực hiện có phương pháp, và ông phải trả giá rất đắt. Những gì Crawford nói trên điện thoại đã xác nhận điều này.
Bây giờ ông đang nói với ông giám đốc.
- Thưa ông, không. Việc đó có thức tỉnh họ không?… Trong bao lâu? Thưa ông không. Không. Không có micro. Tommy à, tôi xin nhận lấy trách nhiệm và muốn như thế. Tôi không muốn cô ta có micro trên người. Và bác sĩ Bloom cũng đồng ý như thế. Anh ấy bị kẹt lại tại phi trường O’Hare vì sương mù. Anh ta sẽ trở về ngay khi có thể. Đồng ý.
Sau đó Crawford có một cuộc nói chuyện bí mật với cô y tá đang ở nhà ông ta. Sau khi gác máy, ông nhìn xuyên qua cửa sổ, ra bên ngoài tối đen gần cả một phút, một tay để trên đầu gối, cầm cặp kính bằng hai ngón tay: khuôn mặt ông ta, được các chiếc xe chạy ngược chiều chiếu sáng, có vẻ như trần trụi. Kế đến ông đeo kính vào và xoay qua Clarice.
- Chúng ta có được Lecter trong ba ngày. Nếu chúng ta không có được kết quả nào, thì cảnh sát Baltimore sẽ quấy nhiễu ông ta cho đến khi một tòa án sẽ tống khứ họ.
- Quấy nhiễu ông ta? Lần này sẽ không mang lại kết quả gì hơn lần sau cùng đâu.
- Ông ta đã cho họ cái gì thế? Một con gà bằng giấy phải không?
- Phải, một hình xếp origami. - Cái đó vẫn còn nằm trong túi xách của Clarice. Cô kéo thẳng ra để cho nó mổ trên cái bàn nhỏ.
- Tôi không chê trách gì cảnh sát Baltimore hết. Ông ta là tù nhân của họ mà. Nếu người ta tìm được Catherine trong một con sông, họ có thể nói cho bà mẹ biết rằng họ đã làm đủ hết mọi cách rồi.
- Bà Thượng nghị sĩ Martin ra sao rồi?
- Bà ta rất can đảm nhưng đau khổ lắm. Bà là một phụ nữ thông minh, cương quyết và đầy lý trí. Cô sẽ thích bà ta thôi, Starling.
- Thế Viện John Hopkins và Ban Hình sự Baltimore có giữ bí mật về con côn trùng được tìm thấy trong cuống họng của Klaus không? Chúng ta có thể ngăn cản đám báo chí đề cập đến việc này không?
- Ít nhất là trong ba ngày.
- Chắc không dễ chút nào.
- Chúng ta không thể tin tưởng Frederick Chilton hoặc với nhân viên của bệnh viện được. Nếu Chilton biết được thì cả thế giới cũng sẽ biết. Ông ta tất nhiên sẽ biết cô có ở đây, chỉ đơn thuần làm một công việc để giúp cho cảnh sát Baltimore, bằng cách lý giải vụ án của Klaus, mà chuyện này không hề liên quan gì với Buffalo Bill cả.
- Cũng vì thế mà tôi phải đến muộn sao?
- Đó là cách duy nhất tôi có thể ban cho cô. Sẵn đây, vụ con côn trùng trong họng của cô gái ở Potter sẽ được các báo đăng vào ngày mai đấy. Cái tin này bị rò rỉ từ văn phòng điều tra những vụ chết bất thường của Cincinnati, vì vậy nó không còn là bí mật nữa. Cô có thể nói cho Lecter biết chi tiết này và nó sẽ không quan trọng một khi ông ta không biết là chúng ta tìm thấy một con khác trong họng của Klaus.
- Chúng ta có thể đề nghị gì với ông ta?
- Tôi đang nghĩ đây - Crawford trả lời trong khi nhấc điện thoại lên.
- Lecter đã đề nghị sự giúp đỡ của ông ta mà không cần tôi phải lên tiếng. Ông ta đã làm việc đó và nó không mang lại kết quả gì khả quan cả; lần cuối cùng ông ta “giúp đỡ” Will Graham nhận lấy mấy nhát dao trên mặt, bởi vì việc đó làm cho ông ta vui.
- Nhưng với một con côn trùng trong họng của Klaus, một con côn trùng trong họng của cô gái ở Potter, thì tất nhiên tôi phải quan tâm rồi. Alan Bloom chưa hề nghe nói đến điều này, cả tôi cũng thế. Vậy cô có gặp một việc gì tương tự như thế không, Starling? Mấy lúc sau này, cô đọc các tạp chí nhiều hơn tôi mà.
- Không, chưa bao giờ. Nhét một vật gì đó thì có, chứ một con côn trùng thì không.
- Để bắt đầu, có hai việc. Trước nhất, chúng ta đặt giả thuyết cho rằng bác sĩ Lecter thật sự biết một cái gì đó cụ thể. Kế đến, chúng ta biết là ông ta chỉ tìm thú vui cho mình thôi. Chúng ta không được quên điều này. Phải làm sao cho ông ta muốn cho Buffalo Bill bị bắt trước khi hắn giết chết Catherine Martin. Thú vui và các lợi ích ông ta có thể rút ra được, phải được xem xét theo chiều hướng đó. Chúng ta không có cách nào để hăm dọa ông ta được, người ta đã lấy đi hết các sách và bàn cầu của ông ta rồi.
- Chuyện gì sẽ xảy ra nếu chúng ta trình hết sự việc và đề nghị tặng cho ông ta một cái gì đó, một phòng giam có cửa sổ chẳng hạn? Đó là thứ ông ta yêu cầu khi đề nghị giúp chúng ta.
- Giúp chúng ta. Không phải tố giác một người nào đó. Việc tố giác không cho phép ông ta biểu hiện sự hiểu biết của mình. Dường như cô chưa thuyết phục được ông ta lắm. Cô muốn nói sự thật cho ông ta biết. Hãy nghe đây, Lecter không có vội. Ông ta theo dõi vụ này như một trận cầu. Nếu chúng ta yêu cầu ông ta tố giác, ông ta sẽ chờ đợi. Ông ta không làm ngay đâu.
- Dù để nhận được một phần thưởng? Một cái gì đó mà ông ta sẽ không có được nếu Catherine Martin chết đi?
- Có thể chúng ta sẽ nói là chúng ta biết ông ta biết tên thủ phạm và muốn ông ta tố giác hắn. Điều làm cho ông ta vui hơn nữa là cố gắng nhớ lại, trong nhiều ngày liền, làm kích thích niềm hy vọng của thượng nghị sĩ Martin và để cho Catherine phải chết. Sau đó ông ta hành hạ bà mẹ của nạn nhân kế tiếp và kế tiếp, làm như thể ông ta sắp nhớ ra vậy, mà điều này còn lý thú hơn một cửa sổ. Ông ta sống nhờ những thứ đó, sống bằng thứ đó.
- Starling biết không, tôi không nghĩ con người khi già sẽ khôn ngoan hơn, nhưng người ta tránh được nhiều thứ. Và điều đó là có thể với chúng ta trong trường hợp này.
- Như vậy, tôi phải làm cho Lecter nghĩ rằng tôi đến gặp ông ta đơn thuần vì sự trực giác và các hiểu biết của ông ta.
- Đúng thế.
- Tại sao ông nói ra hết tất cả các lời giải thích đó? Tại sao không chỉ đơn giản nói cho tôi biết những gì tôi phải hỏi ông ta?
- Tôi rất thành thật với cô. Và tôi cũng sẽ làm như thế một khi cô có được một vị trí quan trọng, về lâu về dài, chỉ có điều đó mới tồn tại thôi.
- Vậy tôi không được nói việc tìm thấy con côn trùng trong cuống họng của Klaus và cả mối liên hệ giữa Klaus với và Buffalo Bill.
- Không. Cô trở lại gặp ông ta bởi sự kiện ông ta tiên đoán việc Buffalo Bill lột da đầu đã gây ấn tượng mạnh cho cô. Tôi không muốn nghe nói đến ông ta nữa, và cả Bloom cũng thế. Nhưng tôi cho cô toàn quyền quyết định. Cô có quyền cung cấp cho ông ta vài đặc ân nào đó mà chỉ có ngài thượng nghị sĩ Martin mới có thể có được. Ông ta phải hiểu là ông ta phải gấp rút lên vì lời đề nghị đó sẽ chấm dứt nếu Catherine chết. Trong trường hợp này bà thượng nghị sĩ sẽ không còn quan tâm đến ông ta nữa. Nếu ông ta thất bại, chính là vì ông ta không đủ khôn lanh và không biết đủ nhiều để thực hiện được những gì ông ta hứa, chớ không phải vì ông ta nói sai các điều tiết lộ của chính ông ta để chống lại chúng ta.
- Thế bà thượng nghị sị sẽ không còn quan tâm đến ông ta nữa à?
- Tốt hơn hết, dưới lời tuyên thệ, cô có thể nói là không biết câu trả lời của vấn đề này.
- Tôi hiểu rồi. Như vậy là bà thượng nghị sĩ chưa biết gì hết. Ông này gan cùng mình. Hiển nhiên ông rất ngại một sự can thiệp, sợ việc bà thượng nghị sĩ phạm sai lầm khi muốn liên hệ trực tiếp với bác sĩ Lecter.
- Cô tin như thế thật sao?
- Đúng vậy. Làm sao ông ta có thể hướng chúng ta khá rõ ràng đến Buffalo Bill mà không cho thấy ông ta biết chính xác rất nhiều việc được? Làm sao ông ta có thể làm được điều đó chỉ với trực giác cùng những hiểu biết theo lý thuyết mà thôi?
- Tôi không rõ nữa, Starling. Có thể ông ta có dư thời giờ để suy nghĩ. Thời gian cần thiết để chúng ta tìm thấy nạn nhân thứ sáu của chúng ta.
Điện thoại có máy gây nhiễu reo lên và nhấp nháy cho một loạt cuộc gọi mà Crawford đã yêu cầu với tổng đài của FBI.
Trong suốt hai mươi phút sau đó, ông ta nói chuyện với các thanh tra cảnh sát Hà Lan và Hiến binh Hoàng gia mà ông ta quen, một cấp chỉ huy cảnh sát Đan Mạch đã từng học ở Quantico, đang làm phụ tá cho ông sếp Ban An ninh Chinh trị của cảnh sát Đan Mạch. Ông làm cho Clarice phải ngạc nhiên khi nói chuyện bằng tiếng Pháp với ban trực đêm của cảnh sát Bỉ. Với mọi người, ông cắt nghĩa rằng phải nhận dạng Klaus và các đồng bọn càng sớm càng tốt. Mỗi thẩm quyền xét xử đã nhận được lời yêu cầu trên máy télex riêng của Interpol, nhưng cộng một cuộc gọi trực tiếp, nó sẽ không nằm tại máy trong nhiều giờ liền.
Clarice hiểu rằng Crawford sử dụng chiếc xe tải này vì hệ thống điện thoại vô tuyến có trang bị hệ thống gây nhiễu, nhưng ông sẽ làm việc hữu hiệu tại văn phòng của mình. Ông phải làm trò ảo thuật với cuốn sổ tay con trên cái bàn tí xíu trong ánh sáng yếu ớt và cả hai đều tưng lên mỗi khi chiếc xe cán lên dải nhựa đường. Clarice chưa có nhiều kinh nghiệm chiến trường, nhưng cô biết, thông thường cấp trưởng của một sở không bao giờ di chuyển trên một chiếc xe tải cho một cuộc chạy đua như thế này. Ông vẫn có thể ra lệnh bằng điện thoại vô tuyến như thường, nhưng cô rất mừng là ông đã không làm như thế.
Clarice có cảm tưởng sự im lặng và yên tĩnh của chiếc xe, thời gian ấn định cho công tác này được thực hiện có phương pháp, và ông phải trả giá rất đắt. Những gì Crawford nói trên điện thoại đã xác nhận điều này.
Bây giờ ông đang nói với ông giám đốc.
- Thưa ông, không. Việc đó có thức tỉnh họ không?… Trong bao lâu? Thưa ông không. Không. Không có micro. Tommy à, tôi xin nhận lấy trách nhiệm và muốn như thế. Tôi không muốn cô ta có micro trên người. Và bác sĩ Bloom cũng đồng ý như thế. Anh ấy bị kẹt lại tại phi trường O’Hare vì sương mù. Anh ta sẽ trở về ngay khi có thể. Đồng ý.
Sau đó Crawford có một cuộc nói chuyện bí mật với cô y tá đang ở nhà ông ta. Sau khi gác máy, ông nhìn xuyên qua cửa sổ, ra bên ngoài tối đen gần cả một phút, một tay để trên đầu gối, cầm cặp kính bằng hai ngón tay: khuôn mặt ông ta, được các chiếc xe chạy ngược chiều chiếu sáng, có vẻ như trần trụi. Kế đến ông đeo kính vào và xoay qua Clarice.
- Chúng ta có được Lecter trong ba ngày. Nếu chúng ta không có được kết quả nào, thì cảnh sát Baltimore sẽ quấy nhiễu ông ta cho đến khi một tòa án sẽ tống khứ họ.
- Quấy nhiễu ông ta? Lần này sẽ không mang lại kết quả gì hơn lần sau cùng đâu.
- Ông ta đã cho họ cái gì thế? Một con gà bằng giấy phải không?
- Phải, một hình xếp origami. - Cái đó vẫn còn nằm trong túi xách của Clarice. Cô kéo thẳng ra để cho nó mổ trên cái bàn nhỏ.
- Tôi không chê trách gì cảnh sát Baltimore hết. Ông ta là tù nhân của họ mà. Nếu người ta tìm được Catherine trong một con sông, họ có thể nói cho bà mẹ biết rằng họ đã làm đủ hết mọi cách rồi.
- Bà Thượng nghị sĩ Martin ra sao rồi?
- Bà ta rất can đảm nhưng đau khổ lắm. Bà là một phụ nữ thông minh, cương quyết và đầy lý trí. Cô sẽ thích bà ta thôi, Starling.
- Thế Viện John Hopkins và Ban Hình sự Baltimore có giữ bí mật về con côn trùng được tìm thấy trong cuống họng của Klaus không? Chúng ta có thể ngăn cản đám báo chí đề cập đến việc này không?
- Ít nhất là trong ba ngày.
- Chắc không dễ chút nào.
- Chúng ta không thể tin tưởng Frederick Chilton hoặc với nhân viên của bệnh viện được. Nếu Chilton biết được thì cả thế giới cũng sẽ biết. Ông ta tất nhiên sẽ biết cô có ở đây, chỉ đơn thuần làm một công việc để giúp cho cảnh sát Baltimore, bằng cách lý giải vụ án của Klaus, mà chuyện này không hề liên quan gì với Buffalo Bill cả.
- Cũng vì thế mà tôi phải đến muộn sao?
- Đó là cách duy nhất tôi có thể ban cho cô. Sẵn đây, vụ con côn trùng trong họng của cô gái ở Potter sẽ được các báo đăng vào ngày mai đấy. Cái tin này bị rò rỉ từ văn phòng điều tra những vụ chết bất thường của Cincinnati, vì vậy nó không còn là bí mật nữa. Cô có thể nói cho Lecter biết chi tiết này và nó sẽ không quan trọng một khi ông ta không biết là chúng ta tìm thấy một con khác trong họng của Klaus.
- Chúng ta có thể đề nghị gì với ông ta?
- Tôi đang nghĩ đây - Crawford trả lời trong khi nhấc điện thoại lên.
Một phòng tắm rộng lớn với gạch men trắng tinh, các cửa sổ và trang thiết bị của Ý bóng loáng, nổi bật trên các bức tường trơ trụi bằng gạch cũ xưa. Trong đó có một bàn trang điểm với vô số lọ mỹ phẩm và hai bên có hai chậu cây xanh cùng một cái gương đầy hơi nước. Từ dưới vòi sen phát ra một giọng ngân nga bài hát Cash for Your Trash của Fats Waller, được trích từ vở ca nhạc kịch Aint misbehavin.
Dưới vòi sen là Jame Gumb, ba mươi bốn tuổi một người da trắng. Anh ta có thân hình bệ vệ, nặng chín mươi ba ký, tóc nâu với đôi mắt xanh, không dấu vết đặc biệt. Anh ta đọc tên mình giống như James mà không có chữ s. Jame. Anh ta muốn như thế.
Sau khi tắm xong một lần, Gumb thoa lên người một loại dầu làm săn da và dùng bông tắm để chà những chỗ trên người mà anh ta không thích đụng vào. Chân và bàn chân anh ta đầy lông.
Gumb chà người cho đến khi nó đỏ lên, sau đó mới thoa thêm một loại kem dưỡng da. Một tấm gương thật to cho thấy được chân giấu đằng sau một màn kéo treo trên một thanh sắt.
Khi chà vào vùng giữa hai đùi, anh ta kéo tấm màn và nhìn vào gương trong một bộ điệu lả lơi, mặc dù việc đó làm cho cơ quan sinh dục của anh ta đau khủng khiếp.
- “Làm cái gì đó cho em đi anh yêu. Làm cái gì đó cho em NGAY BÂY GIỜ”. - Anh ta dùng âm vực cao nhất của cái giọng sâu tự nhiên của mình, và nghĩ như thế sẽ hay hơn. Anh ta đã uống Premarin, một loại kích thích tố trong một thời gian khá lâu, sau đó là diéthylstilboestrol, nhưng vẫn không có tác dụng gì cho giọng của anh ta cả, tuy nhiên đã làm rụng bớt lông ngực trước cặp vú đang trở nên tròn hơn. Phương pháp điều trị điện phân đã làm rụng hết râu và tạo hình chữ V ngay trước trán, nhưng anh ta vẫn chưa giống một phụ nữ. Anh ta có dáng vẻ một đàn ông đánh nhau bằng móng tay của mình hơn là dùng nắm đấm.
Phải quan hệ với anh ta một thời gian dài mới biết đây là một sự cố gắng nghiêm túc và vụng về để thay đổi giới tính hoặc của một hình biếm họa hận thù. Nhưng không một người nào qua lại với anh ta lâu.
Con chó con cào vào cánh cửa khi nghe tiếng anh ta. Gumb choàng áo tắm vào rồi mở cửa cho nó vào. Anh ta ôm con chó xù lên và hôn lưng nó một cái.
- Đưươợccc rồi. Mày đói rồi, phải không Quý Báu? Tao cũng thế.
Anh ta chuyền con chó qua tay kia để mở cửa. Nó vặn mình để bảo anh ta bỏ nó xuống.
- Từ từ nào, con yêu - Với bàn tay không, anh ta lấy khẩu cạc bin M-14 để dưới đất cạnh giường và bỏ nó lên cái gối. - Đi nào. Chúng ta đi ăn tối nhé! - Anh thả con chó xuống thảm và lấy quần áo mặc vào. Con chó nôn nóng lót tót theo anh xuống cầu thang đến nhà bếp.
Gumb lấy ba khay ăn từ trong lò vi ba ra. Hai cho anh ta và một cho con chó xù.
Con chó ngấu nghiến hết mọi thứ trong đĩa trừ phần rau, còn Gumb thì chừa lại xương trong hai cái mâm.
Anh cho con chó ra ngoài bằng cửa sau và đứng nhìn nó hạ mông xuống trong ánh sáng mờ trước thềm nhà.
- Mày chưa làm công việc đó à, thôi được tao không nhìn mày đâu - Nhưng anh ta lén nhìn qua khe của mấy ngón tay - Ồ, tuyệt quá, mày là một tiểu thư rồi đấy. Thôi nào, chúng ta đi ngủ đây.
Gumb rất thích ngủ. Mỗi đêm, anh ngủ đến mấy chặp. Anh cũng thích đứng lên và ngồi trong phòng mà không bật đèn, hoặc làm việc ngay giữa đêm khuya khi anh ta có hứng.
Vào lúc tắt đèn nhà bếp, anh đứng lại và trề môi khi nhìn những thứ còn lại của bữa ăn tối. Anh gom ba cái mâm lại và lau bàn.
Một công tắc điện ở ngay đầu cầu thang. Bật sáng các ngọn đèn dưới hầm, Jame Gumb đi xuống dưới với mấy cái mâm trên tay. Con chó con sủa ở phía sau và anh ta mở cửa cho nó.
- Đáng đời mày, Billy ngu ngốc. - Anh ta ôm con chó lên và đưa nó xuống cùng. Con chó ngọ nguậy và chỏ mỏ vào mấy cái mâm. - Không được, mày đã ăn nhiều rồi - Anh ta bỏ nó xuống đất và nó chạy theo anh cho đến tầng hầm nằm trên nhiều bậc khác nhau.
Ngay dưới nhà bếp, có một cái giếng đã cạn từ lâu. Bờ miệng giếng bằng đá, cách mặt đất gần sáu mươi phân. Cái nắp bằng gỗ, khá nặng đối với một đứa trẻ muốn giở nó lên, vẫn còn nguyên. Trên đó có một miệng khá lớn để người ta thòng một cái xô xuống đó. Nó đang mở và Gumb bỏ hết mớ đồ ăn dư xuống dó.
Xương và mấy miếng rau biến mất dạng trong bóng tối đen của cái giếng. Con chó con ngồi xuống để xin ăn.
- Không, không, không còn gì đâu - Gumb nói - Mày như thế đủ mập rồi.
Anh ta bước lên cầu thang và huýt sáo gọi con chó. Không một cử chỉ nào cho thấy anh ta nghe một tiếng gọi được phát ra từ cái lỗ đen kia:
- TÔI VAAANNNN ÔÔNNNGGG!
Dưới vòi sen là Jame Gumb, ba mươi bốn tuổi một người da trắng. Anh ta có thân hình bệ vệ, nặng chín mươi ba ký, tóc nâu với đôi mắt xanh, không dấu vết đặc biệt. Anh ta đọc tên mình giống như James mà không có chữ s. Jame. Anh ta muốn như thế.
Sau khi tắm xong một lần, Gumb thoa lên người một loại dầu làm săn da và dùng bông tắm để chà những chỗ trên người mà anh ta không thích đụng vào. Chân và bàn chân anh ta đầy lông.
Gumb chà người cho đến khi nó đỏ lên, sau đó mới thoa thêm một loại kem dưỡng da. Một tấm gương thật to cho thấy được chân giấu đằng sau một màn kéo treo trên một thanh sắt.
Khi chà vào vùng giữa hai đùi, anh ta kéo tấm màn và nhìn vào gương trong một bộ điệu lả lơi, mặc dù việc đó làm cho cơ quan sinh dục của anh ta đau khủng khiếp.
- “Làm cái gì đó cho em đi anh yêu. Làm cái gì đó cho em NGAY BÂY GIỜ”. - Anh ta dùng âm vực cao nhất của cái giọng sâu tự nhiên của mình, và nghĩ như thế sẽ hay hơn. Anh ta đã uống Premarin, một loại kích thích tố trong một thời gian khá lâu, sau đó là diéthylstilboestrol, nhưng vẫn không có tác dụng gì cho giọng của anh ta cả, tuy nhiên đã làm rụng bớt lông ngực trước cặp vú đang trở nên tròn hơn. Phương pháp điều trị điện phân đã làm rụng hết râu và tạo hình chữ V ngay trước trán, nhưng anh ta vẫn chưa giống một phụ nữ. Anh ta có dáng vẻ một đàn ông đánh nhau bằng móng tay của mình hơn là dùng nắm đấm.
Phải quan hệ với anh ta một thời gian dài mới biết đây là một sự cố gắng nghiêm túc và vụng về để thay đổi giới tính hoặc của một hình biếm họa hận thù. Nhưng không một người nào qua lại với anh ta lâu.
Con chó con cào vào cánh cửa khi nghe tiếng anh ta. Gumb choàng áo tắm vào rồi mở cửa cho nó vào. Anh ta ôm con chó xù lên và hôn lưng nó một cái.
- Đưươợccc rồi. Mày đói rồi, phải không Quý Báu? Tao cũng thế.
Anh ta chuyền con chó qua tay kia để mở cửa. Nó vặn mình để bảo anh ta bỏ nó xuống.
- Từ từ nào, con yêu - Với bàn tay không, anh ta lấy khẩu cạc bin M-14 để dưới đất cạnh giường và bỏ nó lên cái gối. - Đi nào. Chúng ta đi ăn tối nhé! - Anh thả con chó xuống thảm và lấy quần áo mặc vào. Con chó nôn nóng lót tót theo anh xuống cầu thang đến nhà bếp.
Gumb lấy ba khay ăn từ trong lò vi ba ra. Hai cho anh ta và một cho con chó xù.
Con chó ngấu nghiến hết mọi thứ trong đĩa trừ phần rau, còn Gumb thì chừa lại xương trong hai cái mâm.
Anh cho con chó ra ngoài bằng cửa sau và đứng nhìn nó hạ mông xuống trong ánh sáng mờ trước thềm nhà.
- Mày chưa làm công việc đó à, thôi được tao không nhìn mày đâu - Nhưng anh ta lén nhìn qua khe của mấy ngón tay - Ồ, tuyệt quá, mày là một tiểu thư rồi đấy. Thôi nào, chúng ta đi ngủ đây.
Gumb rất thích ngủ. Mỗi đêm, anh ngủ đến mấy chặp. Anh cũng thích đứng lên và ngồi trong phòng mà không bật đèn, hoặc làm việc ngay giữa đêm khuya khi anh ta có hứng.
Vào lúc tắt đèn nhà bếp, anh đứng lại và trề môi khi nhìn những thứ còn lại của bữa ăn tối. Anh gom ba cái mâm lại và lau bàn.
Một công tắc điện ở ngay đầu cầu thang. Bật sáng các ngọn đèn dưới hầm, Jame Gumb đi xuống dưới với mấy cái mâm trên tay. Con chó con sủa ở phía sau và anh ta mở cửa cho nó.
- Đáng đời mày, Billy ngu ngốc. - Anh ta ôm con chó lên và đưa nó xuống cùng. Con chó ngọ nguậy và chỏ mỏ vào mấy cái mâm. - Không được, mày đã ăn nhiều rồi - Anh ta bỏ nó xuống đất và nó chạy theo anh cho đến tầng hầm nằm trên nhiều bậc khác nhau.
Ngay dưới nhà bếp, có một cái giếng đã cạn từ lâu. Bờ miệng giếng bằng đá, cách mặt đất gần sáu mươi phân. Cái nắp bằng gỗ, khá nặng đối với một đứa trẻ muốn giở nó lên, vẫn còn nguyên. Trên đó có một miệng khá lớn để người ta thòng một cái xô xuống đó. Nó đang mở và Gumb bỏ hết mớ đồ ăn dư xuống dó.
Xương và mấy miếng rau biến mất dạng trong bóng tối đen của cái giếng. Con chó con ngồi xuống để xin ăn.
- Không, không, không còn gì đâu - Gumb nói - Mày như thế đủ mập rồi.
Anh ta bước lên cầu thang và huýt sáo gọi con chó. Không một cử chỉ nào cho thấy anh ta nghe một tiếng gọi được phát ra từ cái lỗ đen kia:
- TÔI VAAANNNN ÔÔNNNGGG!
Clarice Starling đến bệnh viện của Baltimore một mình khoảng sau hai mươi hai giờ. Cô đã hy vọng bác sĩ Frederick Chilton sẽ không còn ở đó, nhưng ông ta đang chờ cô trong phòng làm việc của mình.
Ông mặc một áo vét thể thao kiểu Anh với ca rô lớn. Trước bàn làm việc của ông chỉ có một chiếc ghế lưng thẳng được vít chặt xuống sàn nhà. Clarice đứng ngay cạnh đó và những tiếng “Xin chào ông” của cô không có tiếng đáp lại. Cô ngửi thấy mùi hăng hắc lạnh tanh của mấy cái tẩu được Chilton xếp trên một cái giá, cạnh máy hút ẩm.
Sau khi xem xong bộ sưu tập các đầu máy xe lửa Franklin Mint, ông mới quay qua nhìn cô.
- Cô có muốn một tách cà phê không?
- Dạ thưa không, cám ơn ông. Xin ông thứ lỗi cho tôi vì đã quấy rầy ông trong giờ khuya khoắt như thế này?
- Cô vẫn đang theo dõi vụ cái đầu đó à…?
- Đúng vậy. Văn phòng công tố ở Baltimore có nói với tôi là họ đã thỏa thuận mọi thứ với ông rồi.
- Ờ, phải rồi. Tôi hợp tác tay trong tay với cảnh sát mà, cô Starling. Thế cô đang làm một bài báo hay một luận án?
- Thưa không.
- Cô chưa bao giờ đăng bài báo nào trong một tạp chí chuyên khoa sao?
- Không, chưa bao giờ. Đây chỉ là một công tác nhỏ bé mà văn phòng điều tra các vụ án mạng bất thường của Biệt đội hình sự quận Baltimore nhờ tôi. Chúng ta đã giao một vụ án cho họ và chỉ còn giải quyết vài chi tiết lặt vặt thôi. - Clarice nhận ra mình rất ghét tay bác sĩ Chilton này và điều đó giúp cho cô nói láo dễ hơn.
- Cô có máy ghi âm nào không, cô Starling?
- Có, tôi…
- Cô có giấu một micro nào để ghi âm tất cả những gì bác sĩ Lecter sẽ nói với cô không?
- Không.
Ông Chilton lấy trong ngăn tủ ra một máy Pearlcorder nhỏ và gắn một băng cát xét vào trong đó. - Nếu thế, cô nên bỏ cái này vào trong túi xách cô. Tôi sẽ cho cô một bản sao chép. Điều này có thể giúp ích cho việc bổ sung các ghi chép của cô.
- Thưa không, tôi không muốn làm thế thưa bác sĩ Chilton.
- Tại sao chứ? Các cấp thẩm quyền của Baltimore có yêu cầu tôi phân tích tất cả những gì Lecter nói về vụ án Klaus mà.
Hãy cố phỉnh phờ Chilton, Crawford dặn cô như thế. Tôi có thể có bất cứ lúc nào một lệnh của tòa án, nhưng Lecter sẽ biết ngay. Ông ta biết các ý nghĩ của Chilton rõ như một máy quét ảnh vậy.
- Người ta khuyên tôi thử tiếp cận ông ta một cách không chính thức. Nếu tôi thâu băng lén và ông ta biết được, điều đó khiến ông ta mất lòng tin ở tôi. Tôi tin chắc ông hiểu điều này.
- Nhưng làm sao ông ta biết được?
“Ông ta sẽ đọc trên báo với tất cả những thứ khác mà mày biết được, thằng khốn.” cô thầm nghĩ.
Cô không trả lời câu hỏi.
- Nếu ông ta chịu cung khai, ông sẽ là người đầu tiên biết được việc đó và tôi cũng tin chắc là người ta sẽ gọi ông ra làm chứng với tư cách là chuyên gia. Ngay lúc này, chúng ta chỉ cần ông ta cho một đầu mối thôi.
- Nhưng cô có biết tại sao ông chỉ muốn nói chuyện với cô không?
- Thưa không, bác sĩ.
Ông lướt nhìn các bằng cấp và giấy chứng nhận được treo trên các tường trong phòng.
Rồi từ từ xoay đầu về phía Clarice:
- Nhưng cô có biết mình thật sự đang làm gì không?
- Đương nhiên rồi. - Đôi chân của Clarice bắt đầu run vì đã chạy bộ quá nhiều. Cô không muốn tranh cãi với bác sĩ Chilton và hao phí cái sức lực mà cô rất cần để đương đầu với Lecter.
- Này, cô đến bệnh viện của tôi để tra hỏi một bệnh nhân của tôi và cô từ chối cung cấp cho tôi các thông tin mà cô thu thập được sao?
- Tôi chỉ thi hành các lệnh tôi đã nhận thưa bác sĩ Chilton. Tôi có tại đây số điện thoại riêng của văn phòng điều tra. Nếu ông thấy cần, xin ông cứ gọi điện và nói chuyện trực tiếp với ở đó, hoặc để cho tôi kết thúc công việc làm của tôi.
- Tôi không phải là một tên gác tù, thưa cô Starling. Không phải bữa tối, tôi đến đây để đưa rước khách ra vào. Tôi có một vé xem Holiday on ice.
Nói xong, ông mới nhận ra là mình vừa nói một vé. Clarice vừa hiểu thấu được cách sống của ông và ông nhận ra điều đó.
Cô nhìn thấy cái tủ lạnh trống trơn, các miếng vụn còn sót lại của bữa ăn đơn độc, quần áo được chất chồng trong nhiều ngày trước khi giặt sạch. Cô đoán được cái lối sống khốn nạn và cô độc đang núp đằng sau những nụ cười để lộ ra hàm răng vàng của ông ta và cô tự nhủ là cô không được thương xót, nói chuyện, hoặc xoay mặt đi chỗ khác. Cô nhìn thẳng vào mặt ông với một cái gật đầu khó nhận thấy, cô như một ngọn giáo đã xuyên thấu người ông, bằng sắc đẹp và sự hiểu biết của mình. Và cô dư biết hiện giờ ông chỉ có một ước muốn duy nhất là kết thúc cuộc nói chuyện này.
Ông cho gọi một thanh niên giúp việc tên Alonzo đưa cô đi.
Ông mặc một áo vét thể thao kiểu Anh với ca rô lớn. Trước bàn làm việc của ông chỉ có một chiếc ghế lưng thẳng được vít chặt xuống sàn nhà. Clarice đứng ngay cạnh đó và những tiếng “Xin chào ông” của cô không có tiếng đáp lại. Cô ngửi thấy mùi hăng hắc lạnh tanh của mấy cái tẩu được Chilton xếp trên một cái giá, cạnh máy hút ẩm.
Sau khi xem xong bộ sưu tập các đầu máy xe lửa Franklin Mint, ông mới quay qua nhìn cô.
- Cô có muốn một tách cà phê không?
- Dạ thưa không, cám ơn ông. Xin ông thứ lỗi cho tôi vì đã quấy rầy ông trong giờ khuya khoắt như thế này?
- Cô vẫn đang theo dõi vụ cái đầu đó à…?
- Đúng vậy. Văn phòng công tố ở Baltimore có nói với tôi là họ đã thỏa thuận mọi thứ với ông rồi.
- Ờ, phải rồi. Tôi hợp tác tay trong tay với cảnh sát mà, cô Starling. Thế cô đang làm một bài báo hay một luận án?
- Thưa không.
- Cô chưa bao giờ đăng bài báo nào trong một tạp chí chuyên khoa sao?
- Không, chưa bao giờ. Đây chỉ là một công tác nhỏ bé mà văn phòng điều tra các vụ án mạng bất thường của Biệt đội hình sự quận Baltimore nhờ tôi. Chúng ta đã giao một vụ án cho họ và chỉ còn giải quyết vài chi tiết lặt vặt thôi. - Clarice nhận ra mình rất ghét tay bác sĩ Chilton này và điều đó giúp cho cô nói láo dễ hơn.
- Cô có máy ghi âm nào không, cô Starling?
- Có, tôi…
- Cô có giấu một micro nào để ghi âm tất cả những gì bác sĩ Lecter sẽ nói với cô không?
- Không.
Ông Chilton lấy trong ngăn tủ ra một máy Pearlcorder nhỏ và gắn một băng cát xét vào trong đó. - Nếu thế, cô nên bỏ cái này vào trong túi xách cô. Tôi sẽ cho cô một bản sao chép. Điều này có thể giúp ích cho việc bổ sung các ghi chép của cô.
- Thưa không, tôi không muốn làm thế thưa bác sĩ Chilton.
- Tại sao chứ? Các cấp thẩm quyền của Baltimore có yêu cầu tôi phân tích tất cả những gì Lecter nói về vụ án Klaus mà.
Hãy cố phỉnh phờ Chilton, Crawford dặn cô như thế. Tôi có thể có bất cứ lúc nào một lệnh của tòa án, nhưng Lecter sẽ biết ngay. Ông ta biết các ý nghĩ của Chilton rõ như một máy quét ảnh vậy.
- Người ta khuyên tôi thử tiếp cận ông ta một cách không chính thức. Nếu tôi thâu băng lén và ông ta biết được, điều đó khiến ông ta mất lòng tin ở tôi. Tôi tin chắc ông hiểu điều này.
- Nhưng làm sao ông ta biết được?
“Ông ta sẽ đọc trên báo với tất cả những thứ khác mà mày biết được, thằng khốn.” cô thầm nghĩ.
Cô không trả lời câu hỏi.
- Nếu ông ta chịu cung khai, ông sẽ là người đầu tiên biết được việc đó và tôi cũng tin chắc là người ta sẽ gọi ông ra làm chứng với tư cách là chuyên gia. Ngay lúc này, chúng ta chỉ cần ông ta cho một đầu mối thôi.
- Nhưng cô có biết tại sao ông chỉ muốn nói chuyện với cô không?
- Thưa không, bác sĩ.
Ông lướt nhìn các bằng cấp và giấy chứng nhận được treo trên các tường trong phòng.
Rồi từ từ xoay đầu về phía Clarice:
- Nhưng cô có biết mình thật sự đang làm gì không?
- Đương nhiên rồi. - Đôi chân của Clarice bắt đầu run vì đã chạy bộ quá nhiều. Cô không muốn tranh cãi với bác sĩ Chilton và hao phí cái sức lực mà cô rất cần để đương đầu với Lecter.
- Này, cô đến bệnh viện của tôi để tra hỏi một bệnh nhân của tôi và cô từ chối cung cấp cho tôi các thông tin mà cô thu thập được sao?
- Tôi chỉ thi hành các lệnh tôi đã nhận thưa bác sĩ Chilton. Tôi có tại đây số điện thoại riêng của văn phòng điều tra. Nếu ông thấy cần, xin ông cứ gọi điện và nói chuyện trực tiếp với ở đó, hoặc để cho tôi kết thúc công việc làm của tôi.
- Tôi không phải là một tên gác tù, thưa cô Starling. Không phải bữa tối, tôi đến đây để đưa rước khách ra vào. Tôi có một vé xem Holiday on ice.
Nói xong, ông mới nhận ra là mình vừa nói một vé. Clarice vừa hiểu thấu được cách sống của ông và ông nhận ra điều đó.
Cô nhìn thấy cái tủ lạnh trống trơn, các miếng vụn còn sót lại của bữa ăn đơn độc, quần áo được chất chồng trong nhiều ngày trước khi giặt sạch. Cô đoán được cái lối sống khốn nạn và cô độc đang núp đằng sau những nụ cười để lộ ra hàm răng vàng của ông ta và cô tự nhủ là cô không được thương xót, nói chuyện, hoặc xoay mặt đi chỗ khác. Cô nhìn thẳng vào mặt ông với một cái gật đầu khó nhận thấy, cô như một ngọn giáo đã xuyên thấu người ông, bằng sắc đẹp và sự hiểu biết của mình. Và cô dư biết hiện giờ ông chỉ có một ước muốn duy nhất là kết thúc cuộc nói chuyện này.
Ông cho gọi một thanh niên giúp việc tên Alonzo đưa cô đi.
Chương 15
Trong lúc băng ngang dưỡng trí viện cùng Alonzo về hướng phòng giam cuối cùng, Clarice đã nhắm mắt lại để bỏ ngoài tai những tiếng la hét, rồi cánh cửa đóng, dù cô cảm nhận được không khí đang lướt trên da cô. Áp lực càng lúc càng mạnh, giống như thể cô đi sâu xuống nước vậy.
Sự cận kề các bệnh nhân tâm thần, và hình ảnh Catherine Martin hai tay bị trói lại giao nộp cho một trong đám này, khiến Clarice có thêm nhiều can đảm. Nhưng có can đảm thôi cũng chưa đủ. Còn cần phải bình tĩnh, phải thật nhạy bén hơn cả các loại vũ khí. Cô phải chứng tỏ được sự kiên nhẫn, chống lại cái ý muốn hoàn tất cho thật mau công việc này. Nếu bác sĩ Lecter biết được câu trả lời, chắc cô phải ra sức lục lạo trong mớ ý nghĩ được giấu kỹ của ông ta.
Alonzo nhấn chuông trên khung cửa nặng nề ở trong cùng.
- “Hãy dạy cho chúng con tình thương và sự siêu thoát, hãy dạy cho chúng con biết đến sự bình thản”.
- Xin lỗi cô muốn nói gì thế? - Alonzo hỏi và Clarice nhận ra là mình vừa nói lớn tiếng.
Anh ta giao cô lại cho một người phụ y tá to con đang mở cửa. Cô nhận thấy lúc Alonzo rời xa chỗ này, anh ta làm dấu thánh giá.
- Rất vui được gặp lại cô - người đàn ông kia nói trong lúc đóng cánh cửa lại.
- Chào anh Barney.
Anh ta đang cầm một quyển sách, ngón trỏ để ngay trang đang đọc. Đó là quyển Lý trí và tình cảm của Jane Austen. Clarice đang ở trong tâm trạng nhận thấy đủ mọi việc.
- Cô có muốn đèn sáng hơn không? - anh ta hỏi.
Đèn trong hành lang không được sáng lắm. Ở cuối đầu kia, ánh đèn chói chang của căn phòng chiếu ra đến bên ngoài.
- Bác sĩ Lecter chưa ngủ sao?
- Lúc đêm tối thì không bao giờ dù cho đèn có tắt đi nữa.
- Nếu vậy cứ giữ nguyên như thế đi.
Clarice đi dọc cái hành lang không sáng sủa đó và không dám nhìn trái hay phải. Tiếng chân của cô dường như vang quá lớn. Không có tiếng động nào khác ngoài tiếng ngáy từ trong một căn phòng phát ra, và một tiếng cười khẩy ở một căn phòng khác.
Phòng giam của Miggs đã có một chủ nhân mới. Cô thấy một cặp chân dài nằm trên sàn còn cái đầu thì tựa vào song sắt. Cô nhìn vào khi đi ngang qua đây. Một người đàn ông đang ngồi dưới đất trên một đống giấy bị xé vụn. Khuôn mặt anh ta vô hồn. Hình của tivi phản chiếu trong ánh mắt anh ta trong khi một làn nước dãi nhỏ chảy dài từ khóe miệng đến vai.
Cô tránh nhìn vào phòng giam của bác sĩ Lecter cho đến khi nhìn thấy ông. Cô đi ngang qua đó với hiện tượng nổi gai ở giữa lưng và bước đến tắt âm thanh của tivi.
Trong cái phòng giam sáng trưng, bác sĩ Lecter đang ngồi đó, trong bộ áo ngủ trắng của dưỡng trí viện. Những màu duy nhất là màu của mắt, tóc và cái miệng đỏ trên một khuôn mặt không biết đến ánh sáng mặt trời từ rất lâu nên gần như hòa lẫn với cái sắc trắng bao quanh; ngay trên cổ áo ông ta, nét mặt dường như đang bị treo lơ lửng trong không khí. Ông ngồi tại cái bàn đằng sau tấm lưới nylon giữ ông cách xa song sắt. Ông ta đang vẽ trên giấy với bàn tay trái làm mẫu. Trong khi cô đang nhìn, ông xoay tấm hình lại và xòe hết bàn tay ra, rồi dùng ngón tay út như một cây bút chì đánh bóng mờ, chỉnh sửa lại lằn vẽ bằng than.
Cô tiến lại gần song sắt hơn và ông ngước đầu lên.
- Xin chào bác sĩ Lecter.
Đầu lưỡi ông ta hiện ra, đỏ như như đôi môi vậy. Cô thấy nó đụng ngay giữa môi rồi thụt vào.
- Clarice.
Cô nghe tiếng rè của giọng kim và tự hỏi không biết bao lâu rồi ông không có nói chuyện.
- Cô thức quá khuya cho một ngày học.
- Không phải một ngày học - cô đáp lại với niềm hy vọng giọng của mình đủ lớn - Hôm qua tôi đã đến Virginie…
- Cô bị thương à?
- Không, tôi…
- Cô bị băng mà.
Và cô nhớ lại.
- Tôi chỉ bị xước nhẹ tại cạnh hồ bơi trong ngày hôm nay. - Cái băng nơi cổ chân cô không thể nhìn thấy được. Chắc ông ta cảm nhận đó thôi. - Hôm qua tôi đến Virginie. Ở đó người ta tìm được một cái xác, nạn nhân cuối cùng của Buffalo Bill.
- Chưa là cái cuối cùng đâu, Clarice.
- Cái áp cuối.
- Đúng.
- Cô có phiền là tôi vẫn tiếp tục vẽ trong khi chúng ta trò chuyện không?
- Ồ không sao hết.
- Cô có xem xét cái xác không?
- Có.
- Cô có nhìn thấy những lần thử trước của hắn không?
- Không, chỉ thấy trên hình mà thôi.
- Cô cảm thấy những gì?
- Nỗi sợ hãi, nhưng sau đó tôi quá bận…
- Rồi sau đó?
- Tôi bị rối trí.
- Nhưng cô có thực hiện nhiệm vụ của cô một cách bình thường không?
- Hoàn toàn.
- Vì Jack Crawford à? Hoặc giả ông ta chỉ gọi điện cho cô từ nhà ông ta?
- Ông ta có mặt ở đó.
- Này Clarice, cô làm cho tôi vui lòng nhé. Cô hãy nghiêng cái đầu qua một bên như thể cô vừa ngủ đi. Thêm một chút nữa. Cám ơn, như thế được rồi. Nếu cô thích, cô cứ ngồi xuống. Cô có kể lại cho Crawford những gì tôi nói cho cô nghe trước khi người ta tìm thấy cái xác đó không?
- Có, nhưng ông ta không quan tâm.
- Và sau khi ông ta nhìn thấy cái xác?
- Ông ta đã trao đổi thật lâu với một chuyên gia của trường đại học…
- Alan Bloom.
- Đúng vậy. Bác sĩ Bloom nói Buffalo Bill đã nhập vào vai nhân vật mà báo chí tạo ra, hình ảnh của một Buffalo Bill lột da đầu được các báo giật gân nhắc đến. Bác sĩ Bloom nói là bất cứ ai cũng có thể tiên đoán việc đó.
- Bloom có tiên đoán à?
- Đó là điều ông ta đã nói.
- Ông ta đã tiên đoán nhưng không nói với bất cứ ai. Tôi hiểu rồi. Nhưng cô nghĩ như thế nào, Clarice?
- Tôi không biết phải nghĩ gì nữa.
- Cô biết vài khái niệm về tâm lý học cũng như về pháp y. Cô đang câu ngay nơi mà hai khoa đó gặp nhau, có phải không? Thế cô có bắt được cái gì không, Clarice?
- Đâu có dễ vậy.
- Hai môn nó đã dạy cho cô những gì rồi về con người Buffalo Bill đó?
- Theo sách vở, hắn là một tên tàn ác.
- Cuộc đời không thể nào được tìm thấy trong sách vở, Clarice à; sự giận dữ mang dáng vẻ của sự dâm dãng; bệnh lupút bị xem như mày đay. - Bác sĩ Lecter đã vẽ xong bàn tay trái và chuyển qua vẽ bàn tay phải bằng với bàn tay trái cũng đẹp không kém. - Cô vừa mới nói đến cuốn sách của Bloom.
- Phải.
- Cô có đọc những gì ông ta viết về tôi không?
- Có.
- Thế ông ta mô tả tôi như thế nào?
- Như một người chống đối xã hội.
- Theo cô, bác sĩ Bloom không bao giờ sai lầm phải không?
- Tôi vẫn chờ ông ta nói đến tính nông cạn của tình trạng xúc động.
Nụ cười của Bác sĩ Lecter làm lộ mấy cái răng trắng nhỏ của ông.
- Không thiếu chuyên gia, Clarice - Bác sĩ Chilton nói về Sammie, đang đứng đằng sau cô, là một tên tâm thần phân liệt biến dạng, không thể cứu chữa được. Ông ta đã bỏ anh ta vào trong phòng của Miggs bởi vì ông ta cho rằng Sammie đã nói vĩnh biệt với cuộc đời rồi. Cô có biết những người tâm thần phân liệt biến dạng kết thúc cuộc đời của họ như thế nào không? Cô đừng có ngại, anh ta không nghe được đâu.
- Đó là những người khó chữa khỏi nhất. Thông thường điều đó kết thúc bằng sự khép mình lại và sự tự hủy nhân cách mà thôi.
Bác sĩ Lecter rút một cái gì đó từ trong chồng giấy của ông ta và bỏ nó vào mâm truyền thức ăn. Clarice kéo sợi dây.
- Hôm qua Sammie đã đưa cho tôi cái này cùng với bữa ăn tối.
Đây là một mẩu giấy với vài hàng được viết bằng bút chì nguệch ngoạc và sai chính tả.
TÔI MƯỚN NHÀN THẤY JEDU
TÔI MƯỚN ĐI CÀNG CHÚA GIÊ XU
TÔI CÓ THỂ ĐI CÀNG JÉDU
NẾU TÔI NGOAN NGOÃN
SAMMIE
Clarice nhìn ngược qua vai phải của mình. Đầu tựa vào song sắt, Sammie nhìn trân trân vào bức tường của phòng giam.
- Cô có thể đọc lớn tiếng được không? Anh ta không nghe cô được đâu.
- Tôi muốn được nhìn thấy Jésus. Tôi muốn được đi cùng Chúa Giêsu. Tôi có thể đi cùng Jésus nếu tôi ngoan ngoãn.
- Không, không, được. Lần này không được có nhịp như một bài xướng nu na của trẻ con ấy. Âm luật thay đổi nhưng cường độ vẫn giữ nguyên - Lecter gõ nhịp thật nhẹ. - Một con gà mái trên một bức tường, đang mổ bánh mì cứng - Cô thấy không, với lòng nhiệt tâm hơn - Tôi muốn được nhìn thấy Jésus. Tôi muốn đi cùng Chúa Giêsu.
- Tôi hiểu rồi - Clarice bỏ mảnh giấy vào lại trong cái mâm.
- Không, cô chả hiểu gì cả. - Bác sĩ Lecter phóng người đứng lên, và cái thân hình mềm dẻo của ông bất ngờ trở nên quái đản trong tư thế của một người lùn dị hình, bắt đầu nhảy và đánh nhịp, giọng nói vang như một máy phát tín hiệu - Tôi muốn nhìn thấy Jésus…
Giọng của Sammie phía sau Clarice gào lên thất thanh như của loại khỉ hét Brazil: anh ta đứng lên và đập mặt vào trong song sắt, gân cổ nổi lên như các sợi dây.
TÔI MUỐN NHÌN THẤY JÉSUS
TÔI MUỐN ĐI CÙNG CHÚA TRỜI
TÔI CÓ THỂ ĐI CÙNG JÉSUS
NẾU TÔI NGOAN NGOÃN
Im lặng. Clarice nhận thấy mình đã đứng lên, cái ghế đã ngã và các giấy tờ cô để trên đùi rớt xuống đất.
- Xin mời cô - Bác sĩ Lecter nói, ông đứng thẳng như một vũ công để mời cô ngồi xuống lại. Ông thả người nhẹ xuống cái ghế bành và lấy tay tựa vào cằm. - Cô không thấy gì cả, - Ông lặp lại. - Sammie rất sùng đạo. Anh ta thất vọng chỉ vì Jésus trở lại quá chậm đó thôi. Tôi có thể nói cho Clarice biết tại sao anh phải ở đây không, Sammie?
Sammie phải dùng hai tay ôm lấy mặt mình để không đập đầu vào thanh sắt nữa.
- Đưưượợợcccc - Sammie nói qua khe tay mình.
- Sammie đã để cái đầu của mẹ mình trong cái khay quyên tiền trong nhà thờ tại Trune. Họ đã hát bài “Hãy dâng tặng những gì tốt nhất cho Thầy” và anh ta không có gì tốt hơn cái đó - Lecter quay sang Sammie - Cám ơn Sammie. Mọi thứ đều ổn thỏa. Anh hãy xem truyền hình đi.
Anh chàng trẻ to con đó ngã vật xuống sàn, đầu vẫn tựa vào song sắt như trước, với ba lằn tia bạc trên khuôn mặt hòa lẫn với nước dãi và nước mắt.
- Tốt rồi. Hay cô lo giải quyết vấn đề của anh ta đi, có thể tôi sẽ lý giải vấn đề của cô. Có qua có lại mà. Anh ta không nghe đâu.
- Anh ta chuyển từ Jésus qua Chúa Giêsu - cô nói - Đó là một trình tự hợp lý.
- Đúng, đó là một sự tiến triển. Tôi rất mừng là anh ta biết được “Jésus” và “Chúa Giêsu” chỉ là một người duy nhất. Đã là một tiến bộ rồi. Cái quan niệm một Chúa duy nhất trong ba ngôi rất khó hiểu, nhất là đối với Sammie, một người chưa biết rõ trong người mình có đến bao nhiêu nhân cách nữa.
- Anh ta thiết lập một mối quan hệ nhân quả giữa thái độ và các mục đích của mình, mà điều đó cho thấy đó là một suy nghĩ có cấu trúc - Clarice nói - Cũng như việc tìm kiếm vần thơ. Anh ta không hề thờ ơ, anh ta khóc. Ông có nghĩ anh ta mắc chứng tâm thần phân liệt nói trên không?
- Có đấy. Cô có ngửi thấy mồ hôi anh ta không? Cái mùi dê đực đó là do chất acide trans - 3 - méthyl - 2 - exenoid. Cô hãy nhớ lấy, đó là mùi của chứng tâm thần phân liệt đấy.
- Thế ông có tin người ta có thể chữa khỏi anh ta không?
- Bác sĩ Lecter, tại sao ông nói Buffalo Bill không phải là một tên tàn ác?
- Bởi vì các báo nói các nạn nhân đều có dấu trói ở cổ tay chứ không phải ở cổ chân. Thế có những dấu đó trên cái xác được tìm thấy tại Virginie không?
- Không.
- Khi nào cô trở về Washington, cô nên đến Phòng Triển Lãm Quốc Gia xem bức tranh Nhục hình của Maryas trước khi nó được trả về Tiệp Khắc. Le Titien có một nhận thức thật độc đáo về chi tiết, hãy quan sát Thần Pan, rất ân cần, đang đem một xô nước tới.
- Ông hãy nghe đây, bác sĩ Lecter, chúng ta có ở đây nhiều tình huống dị thường và nhiều khả năng thật đặc biệt.
- Cho ai?
- Cho ông, nếu chúng ta cứu được người thiếu nữ đó. Ông có thấy bà Thượng nghị sĩ Martin trên truyền hình không?
- Có, tôi có xem chương trình tin tức.
- Ông nghĩ gì về lời tuyên bố của bà ta?
- Chưa khôn khéo cho lắm, nhưng không đáng kể. Người ta đã khuyên bà ấy không đúng cách.
- Bà ấy có thể làm được nhiều thứ. Và cũng là một người kiên trì với các ý nghĩ của mình.
- Tôi đang nghe cô đây.
- Tôi nghĩ ông có một trực giác phi thường. Bà Thượng nghị sĩ Martin có cho biết là nếu ông chịu giúp bà tìm lại được Catheririe Baker Martin bình yên vô sự thì bà sẽ cho ông chuyển qua một cơ sở liên bang, và nếu tại đó có một phòng với một cảnh quan lý thú, thì ông sẽ nhận cái đó. Người ta cũng có thể yêu cầu ông giám sát các cuộc đánh giá về mặt tâm lý học các bệnh nhân mới, nói một cách khác là một công việc làm… Nhưng các biện pháp an ninh vẫn như cũ.
- Clarice ơi, tôi không tin đâu.
- Ông sai rồi.
- Ồ, tôi tin cô mà. Nhưng cô không biết gì nhiều về thái độ con người hơn cách để lột da đầu một người. Đối với một thượng nghị sĩ Hoa Kỳ, quả là ý nghĩ khôi hài khi sử dụng cô như một sứ giả, cô không thấy thế sao?
- Chính ông đã chọn tôi đó, bác sĩ Lecter. Ông đã đồng ý nói chuyện với tôi. Hay ông thích một người khác hơn? Hay ông nghĩ không thể giúp chúng tôi được?
- Đó là một nhận xét vừa sai vừa xấc láo, Clarice à. Tôi không tin việc Crawford chấp thuận cho người ta ban cho tôi bất cứ một đền bù nào… Tôi có thể nào nói điều này mà cô có thể báo cáo lại cho bà thượng nghị sĩ, nhưng phải có đi có lại mới được. Có thể tôi chỉ cần một thông tin của cô thôi. Đồng ý không?
- Hãy xem xét vấn đề trước.
- Có đồng ý hay không? Đúng là Catherine đang chờ có phải không? Khi nghe tiếng đá mài, cô ta sẽ yêu cầu cô làm cái gì?
- Ông hãy đặt câu hỏi của ông đi.
- Thế cái kỷ niệm xấu nhất trong tuổi thơ của cô là gì?
Clarice hít một hơi thật sâu.
- Hãy trả lời mau đi. Tôi không quan tâm đến lời bịa đặt tệ nhất của cô.
- Cái chết của cha tôi.
- Hãy kể cho tôi nghe xem.
- Ông là nhân viên gác đêm của thành phố. Một đêm, ông bắt gặp hai tên trộm, hai thằng nghiện, vừa bước ra khỏi một tiệm thuốc tây. Trong lúc bước xuống xe, ông làm hư cây súng săn của mình và chúng đã bắn ông.
- Làm hư?
- Con trượt của máy ngắm bị lệch ví trí. Đấy là một khẩu súng xưa với ổ đạn hình ống, một khẩu Remington 870, và một viên đạn bị kẹt trong đó. Khi điều này xảy ra, cây súng không thể hoạt động được và phải tháo khẩu súng để lấy viên đạn ra. Tôi nghĩ chắc ông đã đụng con trượt vào cánh cửa khi bước xuống xe.
- Ông ấy có chết ngay tại chỗ không?
- Không, cha tôi đã nằm viện suốt một tháng trời.
- Cô có đến bệnh viện thăm ông không?
- Bác sĩ Lecter… có.
- Hãy kể cho tôi thật chi tiết những gì cô đã thấy tại bệnh viện.
Clarice nhắm mắt lại.
- Một bà hàng xóm có mặt ở đó, một bà cụ già lắm, chưa bao giờ lấy chồng, và bà ta đọc cho ông bài kinh của những người chết. Tôi cho đó là điều duy nhất bà ta làm được. Chuyện là như thế đó. Chúng ta hòa rồi nhé.
- Có qua có lại mà.
- Ông có nghĩ cô gái ở Virginie có một thân hình hấp dẫn lúc cô ta còn sống không?
- Cô ta rất chải chuốt.
- Cô ta hơi bệ vệ.
- To lớn và vai rộng à?
- Đúng vậy.
- Hắn đã bắn ngay ngực cô ta.
- Đúng.
- Tôi đoán chắc ngực cô ta hơi lớn.
- Đối với thân hình thì đúng vậy.
- Nhưng hông cũng rộng.
- Quả thế.
- Cái gì khác nữa?
- Người ta có nhét một con côn trùng trong họng cô ta và thông tin này còn được giữ kín.
- Có phải một con bướm không?
Clarice gần như muốn nín thở. Cô hy vọng ông ta sẽ không chú ý đến.
- Đó là một con bướm đêm. Tôi xin ông, ông làm ơn nói cho tôi biết làm sao ông đoán ra được chi tiết này.
- Này Clarice, tôi sẽ nói cho biết tại sao Buffalo Bill bắt cóc Catherine Baker Martin. Đó là lời cuối cùng của tôi trong các điều kiện hiện tại. Nói cho bà thượng nghị sĩ biết những gì hắn đang muốn làm với Catherine và bà ta có thể cho tôi một đề nghị khác hấp dẫn hơn… hoặc chờ cho con gái bà ta nổi trên một con sông và nhìn nhận là tôi có lý.
- Thưa bác sĩ Lecter, tại sao hắn bắt cóc Catherine vậy?
- Hắn muốn có một áo vét có núm vú.
Sự cận kề các bệnh nhân tâm thần, và hình ảnh Catherine Martin hai tay bị trói lại giao nộp cho một trong đám này, khiến Clarice có thêm nhiều can đảm. Nhưng có can đảm thôi cũng chưa đủ. Còn cần phải bình tĩnh, phải thật nhạy bén hơn cả các loại vũ khí. Cô phải chứng tỏ được sự kiên nhẫn, chống lại cái ý muốn hoàn tất cho thật mau công việc này. Nếu bác sĩ Lecter biết được câu trả lời, chắc cô phải ra sức lục lạo trong mớ ý nghĩ được giấu kỹ của ông ta.
Alonzo nhấn chuông trên khung cửa nặng nề ở trong cùng.
- “Hãy dạy cho chúng con tình thương và sự siêu thoát, hãy dạy cho chúng con biết đến sự bình thản”.
- Xin lỗi cô muốn nói gì thế? - Alonzo hỏi và Clarice nhận ra là mình vừa nói lớn tiếng.
Anh ta giao cô lại cho một người phụ y tá to con đang mở cửa. Cô nhận thấy lúc Alonzo rời xa chỗ này, anh ta làm dấu thánh giá.
- Rất vui được gặp lại cô - người đàn ông kia nói trong lúc đóng cánh cửa lại.
- Chào anh Barney.
Anh ta đang cầm một quyển sách, ngón trỏ để ngay trang đang đọc. Đó là quyển Lý trí và tình cảm của Jane Austen. Clarice đang ở trong tâm trạng nhận thấy đủ mọi việc.
- Cô có muốn đèn sáng hơn không? - anh ta hỏi.
Đèn trong hành lang không được sáng lắm. Ở cuối đầu kia, ánh đèn chói chang của căn phòng chiếu ra đến bên ngoài.
- Bác sĩ Lecter chưa ngủ sao?
- Lúc đêm tối thì không bao giờ dù cho đèn có tắt đi nữa.
- Nếu vậy cứ giữ nguyên như thế đi.
Clarice đi dọc cái hành lang không sáng sủa đó và không dám nhìn trái hay phải. Tiếng chân của cô dường như vang quá lớn. Không có tiếng động nào khác ngoài tiếng ngáy từ trong một căn phòng phát ra, và một tiếng cười khẩy ở một căn phòng khác.
Phòng giam của Miggs đã có một chủ nhân mới. Cô thấy một cặp chân dài nằm trên sàn còn cái đầu thì tựa vào song sắt. Cô nhìn vào khi đi ngang qua đây. Một người đàn ông đang ngồi dưới đất trên một đống giấy bị xé vụn. Khuôn mặt anh ta vô hồn. Hình của tivi phản chiếu trong ánh mắt anh ta trong khi một làn nước dãi nhỏ chảy dài từ khóe miệng đến vai.
Cô tránh nhìn vào phòng giam của bác sĩ Lecter cho đến khi nhìn thấy ông. Cô đi ngang qua đó với hiện tượng nổi gai ở giữa lưng và bước đến tắt âm thanh của tivi.
Trong cái phòng giam sáng trưng, bác sĩ Lecter đang ngồi đó, trong bộ áo ngủ trắng của dưỡng trí viện. Những màu duy nhất là màu của mắt, tóc và cái miệng đỏ trên một khuôn mặt không biết đến ánh sáng mặt trời từ rất lâu nên gần như hòa lẫn với cái sắc trắng bao quanh; ngay trên cổ áo ông ta, nét mặt dường như đang bị treo lơ lửng trong không khí. Ông ngồi tại cái bàn đằng sau tấm lưới nylon giữ ông cách xa song sắt. Ông ta đang vẽ trên giấy với bàn tay trái làm mẫu. Trong khi cô đang nhìn, ông xoay tấm hình lại và xòe hết bàn tay ra, rồi dùng ngón tay út như một cây bút chì đánh bóng mờ, chỉnh sửa lại lằn vẽ bằng than.
Cô tiến lại gần song sắt hơn và ông ngước đầu lên.
- Xin chào bác sĩ Lecter.
Đầu lưỡi ông ta hiện ra, đỏ như như đôi môi vậy. Cô thấy nó đụng ngay giữa môi rồi thụt vào.
- Clarice.
Cô nghe tiếng rè của giọng kim và tự hỏi không biết bao lâu rồi ông không có nói chuyện.
- Cô thức quá khuya cho một ngày học.
- Không phải một ngày học - cô đáp lại với niềm hy vọng giọng của mình đủ lớn - Hôm qua tôi đã đến Virginie…
- Cô bị thương à?
- Không, tôi…
- Cô bị băng mà.
Và cô nhớ lại.
- Tôi chỉ bị xước nhẹ tại cạnh hồ bơi trong ngày hôm nay. - Cái băng nơi cổ chân cô không thể nhìn thấy được. Chắc ông ta cảm nhận đó thôi. - Hôm qua tôi đến Virginie. Ở đó người ta tìm được một cái xác, nạn nhân cuối cùng của Buffalo Bill.
- Chưa là cái cuối cùng đâu, Clarice.
- Cái áp cuối.
- Đúng.
- Cô có phiền là tôi vẫn tiếp tục vẽ trong khi chúng ta trò chuyện không?
- Ồ không sao hết.
- Cô có xem xét cái xác không?
- Có.
- Cô có nhìn thấy những lần thử trước của hắn không?
- Không, chỉ thấy trên hình mà thôi.
- Cô cảm thấy những gì?
- Nỗi sợ hãi, nhưng sau đó tôi quá bận…
- Rồi sau đó?
- Tôi bị rối trí.
- Nhưng cô có thực hiện nhiệm vụ của cô một cách bình thường không?
- Hoàn toàn.
- Vì Jack Crawford à? Hoặc giả ông ta chỉ gọi điện cho cô từ nhà ông ta?
- Ông ta có mặt ở đó.
- Này Clarice, cô làm cho tôi vui lòng nhé. Cô hãy nghiêng cái đầu qua một bên như thể cô vừa ngủ đi. Thêm một chút nữa. Cám ơn, như thế được rồi. Nếu cô thích, cô cứ ngồi xuống. Cô có kể lại cho Crawford những gì tôi nói cho cô nghe trước khi người ta tìm thấy cái xác đó không?
- Có, nhưng ông ta không quan tâm.
- Và sau khi ông ta nhìn thấy cái xác?
- Ông ta đã trao đổi thật lâu với một chuyên gia của trường đại học…
- Alan Bloom.
- Đúng vậy. Bác sĩ Bloom nói Buffalo Bill đã nhập vào vai nhân vật mà báo chí tạo ra, hình ảnh của một Buffalo Bill lột da đầu được các báo giật gân nhắc đến. Bác sĩ Bloom nói là bất cứ ai cũng có thể tiên đoán việc đó.
- Bloom có tiên đoán à?
- Đó là điều ông ta đã nói.
- Ông ta đã tiên đoán nhưng không nói với bất cứ ai. Tôi hiểu rồi. Nhưng cô nghĩ như thế nào, Clarice?
- Tôi không biết phải nghĩ gì nữa.
- Cô biết vài khái niệm về tâm lý học cũng như về pháp y. Cô đang câu ngay nơi mà hai khoa đó gặp nhau, có phải không? Thế cô có bắt được cái gì không, Clarice?
- Đâu có dễ vậy.
- Hai môn nó đã dạy cho cô những gì rồi về con người Buffalo Bill đó?
- Theo sách vở, hắn là một tên tàn ác.
- Cuộc đời không thể nào được tìm thấy trong sách vở, Clarice à; sự giận dữ mang dáng vẻ của sự dâm dãng; bệnh lupút bị xem như mày đay. - Bác sĩ Lecter đã vẽ xong bàn tay trái và chuyển qua vẽ bàn tay phải bằng với bàn tay trái cũng đẹp không kém. - Cô vừa mới nói đến cuốn sách của Bloom.
- Phải.
- Cô có đọc những gì ông ta viết về tôi không?
- Có.
- Thế ông ta mô tả tôi như thế nào?
- Như một người chống đối xã hội.
- Theo cô, bác sĩ Bloom không bao giờ sai lầm phải không?
- Tôi vẫn chờ ông ta nói đến tính nông cạn của tình trạng xúc động.
Nụ cười của Bác sĩ Lecter làm lộ mấy cái răng trắng nhỏ của ông.
- Không thiếu chuyên gia, Clarice - Bác sĩ Chilton nói về Sammie, đang đứng đằng sau cô, là một tên tâm thần phân liệt biến dạng, không thể cứu chữa được. Ông ta đã bỏ anh ta vào trong phòng của Miggs bởi vì ông ta cho rằng Sammie đã nói vĩnh biệt với cuộc đời rồi. Cô có biết những người tâm thần phân liệt biến dạng kết thúc cuộc đời của họ như thế nào không? Cô đừng có ngại, anh ta không nghe được đâu.
- Đó là những người khó chữa khỏi nhất. Thông thường điều đó kết thúc bằng sự khép mình lại và sự tự hủy nhân cách mà thôi.
Bác sĩ Lecter rút một cái gì đó từ trong chồng giấy của ông ta và bỏ nó vào mâm truyền thức ăn. Clarice kéo sợi dây.
- Hôm qua Sammie đã đưa cho tôi cái này cùng với bữa ăn tối.
Đây là một mẩu giấy với vài hàng được viết bằng bút chì nguệch ngoạc và sai chính tả.
TÔI MƯỚN NHÀN THẤY JEDU
TÔI MƯỚN ĐI CÀNG CHÚA GIÊ XU
TÔI CÓ THỂ ĐI CÀNG JÉDU
NẾU TÔI NGOAN NGOÃN
SAMMIE
Clarice nhìn ngược qua vai phải của mình. Đầu tựa vào song sắt, Sammie nhìn trân trân vào bức tường của phòng giam.
- Cô có thể đọc lớn tiếng được không? Anh ta không nghe cô được đâu.
- Tôi muốn được nhìn thấy Jésus. Tôi muốn được đi cùng Chúa Giêsu. Tôi có thể đi cùng Jésus nếu tôi ngoan ngoãn.
- Không, không, được. Lần này không được có nhịp như một bài xướng nu na của trẻ con ấy. Âm luật thay đổi nhưng cường độ vẫn giữ nguyên - Lecter gõ nhịp thật nhẹ. - Một con gà mái trên một bức tường, đang mổ bánh mì cứng - Cô thấy không, với lòng nhiệt tâm hơn - Tôi muốn được nhìn thấy Jésus. Tôi muốn đi cùng Chúa Giêsu.
- Tôi hiểu rồi - Clarice bỏ mảnh giấy vào lại trong cái mâm.
- Không, cô chả hiểu gì cả. - Bác sĩ Lecter phóng người đứng lên, và cái thân hình mềm dẻo của ông bất ngờ trở nên quái đản trong tư thế của một người lùn dị hình, bắt đầu nhảy và đánh nhịp, giọng nói vang như một máy phát tín hiệu - Tôi muốn nhìn thấy Jésus…
Giọng của Sammie phía sau Clarice gào lên thất thanh như của loại khỉ hét Brazil: anh ta đứng lên và đập mặt vào trong song sắt, gân cổ nổi lên như các sợi dây.
TÔI MUỐN NHÌN THẤY JÉSUS
TÔI MUỐN ĐI CÙNG CHÚA TRỜI
TÔI CÓ THỂ ĐI CÙNG JÉSUS
NẾU TÔI NGOAN NGOÃN
Im lặng. Clarice nhận thấy mình đã đứng lên, cái ghế đã ngã và các giấy tờ cô để trên đùi rớt xuống đất.
- Xin mời cô - Bác sĩ Lecter nói, ông đứng thẳng như một vũ công để mời cô ngồi xuống lại. Ông thả người nhẹ xuống cái ghế bành và lấy tay tựa vào cằm. - Cô không thấy gì cả, - Ông lặp lại. - Sammie rất sùng đạo. Anh ta thất vọng chỉ vì Jésus trở lại quá chậm đó thôi. Tôi có thể nói cho Clarice biết tại sao anh phải ở đây không, Sammie?
Sammie phải dùng hai tay ôm lấy mặt mình để không đập đầu vào thanh sắt nữa.
- Đưưượợợcccc - Sammie nói qua khe tay mình.
- Sammie đã để cái đầu của mẹ mình trong cái khay quyên tiền trong nhà thờ tại Trune. Họ đã hát bài “Hãy dâng tặng những gì tốt nhất cho Thầy” và anh ta không có gì tốt hơn cái đó - Lecter quay sang Sammie - Cám ơn Sammie. Mọi thứ đều ổn thỏa. Anh hãy xem truyền hình đi.
Anh chàng trẻ to con đó ngã vật xuống sàn, đầu vẫn tựa vào song sắt như trước, với ba lằn tia bạc trên khuôn mặt hòa lẫn với nước dãi và nước mắt.
- Tốt rồi. Hay cô lo giải quyết vấn đề của anh ta đi, có thể tôi sẽ lý giải vấn đề của cô. Có qua có lại mà. Anh ta không nghe đâu.
- Anh ta chuyển từ Jésus qua Chúa Giêsu - cô nói - Đó là một trình tự hợp lý.
- Đúng, đó là một sự tiến triển. Tôi rất mừng là anh ta biết được “Jésus” và “Chúa Giêsu” chỉ là một người duy nhất. Đã là một tiến bộ rồi. Cái quan niệm một Chúa duy nhất trong ba ngôi rất khó hiểu, nhất là đối với Sammie, một người chưa biết rõ trong người mình có đến bao nhiêu nhân cách nữa.
- Anh ta thiết lập một mối quan hệ nhân quả giữa thái độ và các mục đích của mình, mà điều đó cho thấy đó là một suy nghĩ có cấu trúc - Clarice nói - Cũng như việc tìm kiếm vần thơ. Anh ta không hề thờ ơ, anh ta khóc. Ông có nghĩ anh ta mắc chứng tâm thần phân liệt nói trên không?
- Có đấy. Cô có ngửi thấy mồ hôi anh ta không? Cái mùi dê đực đó là do chất acide trans - 3 - méthyl - 2 - exenoid. Cô hãy nhớ lấy, đó là mùi của chứng tâm thần phân liệt đấy.
- Thế ông có tin người ta có thể chữa khỏi anh ta không?
- Bác sĩ Lecter, tại sao ông nói Buffalo Bill không phải là một tên tàn ác?
- Bởi vì các báo nói các nạn nhân đều có dấu trói ở cổ tay chứ không phải ở cổ chân. Thế có những dấu đó trên cái xác được tìm thấy tại Virginie không?
- Không.
- Khi nào cô trở về Washington, cô nên đến Phòng Triển Lãm Quốc Gia xem bức tranh Nhục hình của Maryas trước khi nó được trả về Tiệp Khắc. Le Titien có một nhận thức thật độc đáo về chi tiết, hãy quan sát Thần Pan, rất ân cần, đang đem một xô nước tới.
- Ông hãy nghe đây, bác sĩ Lecter, chúng ta có ở đây nhiều tình huống dị thường và nhiều khả năng thật đặc biệt.
- Cho ai?
- Cho ông, nếu chúng ta cứu được người thiếu nữ đó. Ông có thấy bà Thượng nghị sĩ Martin trên truyền hình không?
- Có, tôi có xem chương trình tin tức.
- Ông nghĩ gì về lời tuyên bố của bà ta?
- Chưa khôn khéo cho lắm, nhưng không đáng kể. Người ta đã khuyên bà ấy không đúng cách.
- Bà ấy có thể làm được nhiều thứ. Và cũng là một người kiên trì với các ý nghĩ của mình.
- Tôi đang nghe cô đây.
- Tôi nghĩ ông có một trực giác phi thường. Bà Thượng nghị sĩ Martin có cho biết là nếu ông chịu giúp bà tìm lại được Catheririe Baker Martin bình yên vô sự thì bà sẽ cho ông chuyển qua một cơ sở liên bang, và nếu tại đó có một phòng với một cảnh quan lý thú, thì ông sẽ nhận cái đó. Người ta cũng có thể yêu cầu ông giám sát các cuộc đánh giá về mặt tâm lý học các bệnh nhân mới, nói một cách khác là một công việc làm… Nhưng các biện pháp an ninh vẫn như cũ.
- Clarice ơi, tôi không tin đâu.
- Ông sai rồi.
- Ồ, tôi tin cô mà. Nhưng cô không biết gì nhiều về thái độ con người hơn cách để lột da đầu một người. Đối với một thượng nghị sĩ Hoa Kỳ, quả là ý nghĩ khôi hài khi sử dụng cô như một sứ giả, cô không thấy thế sao?
- Chính ông đã chọn tôi đó, bác sĩ Lecter. Ông đã đồng ý nói chuyện với tôi. Hay ông thích một người khác hơn? Hay ông nghĩ không thể giúp chúng tôi được?
- Đó là một nhận xét vừa sai vừa xấc láo, Clarice à. Tôi không tin việc Crawford chấp thuận cho người ta ban cho tôi bất cứ một đền bù nào… Tôi có thể nào nói điều này mà cô có thể báo cáo lại cho bà thượng nghị sĩ, nhưng phải có đi có lại mới được. Có thể tôi chỉ cần một thông tin của cô thôi. Đồng ý không?
- Hãy xem xét vấn đề trước.
- Có đồng ý hay không? Đúng là Catherine đang chờ có phải không? Khi nghe tiếng đá mài, cô ta sẽ yêu cầu cô làm cái gì?
- Ông hãy đặt câu hỏi của ông đi.
- Thế cái kỷ niệm xấu nhất trong tuổi thơ của cô là gì?
Clarice hít một hơi thật sâu.
- Hãy trả lời mau đi. Tôi không quan tâm đến lời bịa đặt tệ nhất của cô.
- Cái chết của cha tôi.
- Hãy kể cho tôi nghe xem.
- Ông là nhân viên gác đêm của thành phố. Một đêm, ông bắt gặp hai tên trộm, hai thằng nghiện, vừa bước ra khỏi một tiệm thuốc tây. Trong lúc bước xuống xe, ông làm hư cây súng săn của mình và chúng đã bắn ông.
- Làm hư?
- Con trượt của máy ngắm bị lệch ví trí. Đấy là một khẩu súng xưa với ổ đạn hình ống, một khẩu Remington 870, và một viên đạn bị kẹt trong đó. Khi điều này xảy ra, cây súng không thể hoạt động được và phải tháo khẩu súng để lấy viên đạn ra. Tôi nghĩ chắc ông đã đụng con trượt vào cánh cửa khi bước xuống xe.
- Ông ấy có chết ngay tại chỗ không?
- Không, cha tôi đã nằm viện suốt một tháng trời.
- Cô có đến bệnh viện thăm ông không?
- Bác sĩ Lecter… có.
- Hãy kể cho tôi thật chi tiết những gì cô đã thấy tại bệnh viện.
Clarice nhắm mắt lại.
- Một bà hàng xóm có mặt ở đó, một bà cụ già lắm, chưa bao giờ lấy chồng, và bà ta đọc cho ông bài kinh của những người chết. Tôi cho đó là điều duy nhất bà ta làm được. Chuyện là như thế đó. Chúng ta hòa rồi nhé.
- Có qua có lại mà.
- Ông có nghĩ cô gái ở Virginie có một thân hình hấp dẫn lúc cô ta còn sống không?
- Cô ta rất chải chuốt.
- Cô ta hơi bệ vệ.
- To lớn và vai rộng à?
- Đúng vậy.
- Hắn đã bắn ngay ngực cô ta.
- Đúng.
- Tôi đoán chắc ngực cô ta hơi lớn.
- Đối với thân hình thì đúng vậy.
- Nhưng hông cũng rộng.
- Quả thế.
- Cái gì khác nữa?
- Người ta có nhét một con côn trùng trong họng cô ta và thông tin này còn được giữ kín.
- Có phải một con bướm không?
Clarice gần như muốn nín thở. Cô hy vọng ông ta sẽ không chú ý đến.
- Đó là một con bướm đêm. Tôi xin ông, ông làm ơn nói cho tôi biết làm sao ông đoán ra được chi tiết này.
- Này Clarice, tôi sẽ nói cho biết tại sao Buffalo Bill bắt cóc Catherine Baker Martin. Đó là lời cuối cùng của tôi trong các điều kiện hiện tại. Nói cho bà thượng nghị sĩ biết những gì hắn đang muốn làm với Catherine và bà ta có thể cho tôi một đề nghị khác hấp dẫn hơn… hoặc chờ cho con gái bà ta nổi trên một con sông và nhìn nhận là tôi có lý.
- Thưa bác sĩ Lecter, tại sao hắn bắt cóc Catherine vậy?
- Hắn muốn có một áo vét có núm vú.