Nghệ thuật sống 2012-05-09 14:19:50

TRUYỆN TRẠNG QUỲNH- HƠI CŨ NHƯNG HAY VÀ Ý NGHĨA !


Truyện trạng Quỳnh
Đầu to bằng cái bồ
Chuyện kể rằng lúc Quỳnh còn nhỏ, mới bảy tám tuổi, Quỳnh đã tỏ ra thông minh
đỉnh ngộ nhưng cũng là một đứa trẻ chúa nghịch. Hồi ấy bọn trẻ thường chơi trò xước
xách, lấy tàu chuối làm cờ, lá sen làm lọng. Trong trò chơi, Quỳnh bao giờ cũng lấn lướt.
Một đêm mùa thu, trăng tháng tám sáng vằng vặc, đang chơi với đám trẻ ở sân nhà,
Quỳnh bảo:
- Chúng bay làm kiệu cho tao ngồi, rồi tao đưa đi xem một người mà cái đầu to bằng
cái bồ!
Lũ trẻ tưởng thật, liền tranh nhau làm kiệu rước Quỳnh đi vòng vòng quanh sân, mệt
thở muốn đứt hơi. Xong, chúng nhất định bắt Quỳnh phải giữ lời hứa. Lúc ấy trăng đã
mờ, Quỳnh bảo:
- Tụi bây đứng đợi cả ở đây, tôi đi đốt lửa soi cho mà xem!
Bọn trẻ nhỏ hơi sợ, không dám ở lại, chỉ những đứa lớn hơn, bạo dạn đứng chờ.
Quỳnh lấy lửa thắp đèn xong đâu đấy, rồi thò đầu che ngọn đèn, bảo:
- Kìa, trông trên vách kìa. Ông to đầu đã ra đấy!
Anh nào cũng nhìn nhớn nhơ nhớn nhác, thấy bóng đầu Quỳnh ở vách to bằng cái bồ
thật. Lũ trẻ biết Quỳnh xỏ, quay ra bắt Quỳnh làm kiệu đền, Quỳnh chạy vào buồng đóng
cửa lại, kêu ầm lên. Ông bố tưởng là trẻ đánh, cầm roi chạy ra, lũ trẻ chạy tán loạn.




======================================================================






Đất nứt con bọ hung


Từ thuở bé, ngoài tính nghịch ngợm, hiếu động, Quỳnh còn tỏ ra thông minh xuất
chúng khi học rất giỏi và đối đáp hay, nhất là khi ứng khẩu.
Trong làng cậu bé Quỳnh có một người hay chữ nhưng tính tình kiêu ngạo, đi đâu
cũng khoe khoang, tên gọi là ông Tú Cát. Tất nhiên, từ nhỏ Quỳnh đã ghét những người
có bản tính như vậy. Một hôm, Quỳnh đang đứng xem đàn lợn ăn cám thì Tú Cát đi qua. Đã được nghe người ta đồn đãi về thần đồng này, Tú Cát không ưa gì Quỳnh, ông ta ra vẻ
kẻ cả gọi Quỳnh đến bảo:
- Ta nghe thiên hạ đồn mày là đứa thông minh, ứng đáp rất giỏi. Bây giờ ta ra cho
mày một vế đối, nếu mà không đối được thì sẽ biết tay. Nhất định ta sẽ đánh đòn cho
chừa các tật láo, nghe chưa!
Nói xong, không đợi Quỳnh thưa lại, Tú Cát liền gật gù đọc:
- "Lợn cấn ăn cám tốn."
Đây là một câu đối rất hắc búa bởi "Cấn" và "Cám" vừa chỉ lợn và thức ăn của lợn, lại
vừa là hai quẻ trong kinh Dịch, người có học nhiều còn thấy khó. Thế nhưng, không nao
núng, Quỳnh đọc lại ngay:
- "Chó khônss chớ cắn càn."
Quả là một vế đối vừa chỉnh vừa có ý xỏ xiên. "Khôn" và "Càn" cũng là hai quẻ trong
kinh Dịch, Quỳnh lại còn ngầm ý chưởi Tú Cát là đừng có mà rắc rối. Bị thằng nhỏ hơn
mình chơi lại một đòn đau, Tú Cát tức lắm, hầm hầm bảo:
- Được để coi mầy còn thông minh đến cỡ nào. Tao còn một vế nữa, phải đối ngay thì
tao phục!
Nói xong Tú Cát đọc ngay:
- "Trời sinh ông Tú Cát!"
Vế vừa ra mang tính cách ngạo nghễ, phách lối. Nào ngờ, Quỳnh chỉ ngay xuống đất,
dưới lớp phân heo đùn lên những ụ nhỏ mà đáp:
- "Đất nứt con bọ hung!"
Đến nước này thì dù tức đến hộc máu mồm, Tú Cát cũng đành cút thẳng





















====================================================================








Dê đực chửa
Tiếng tăm về một thần đồng nhanh chóng được truyền tụng khắp nơi, ngày càng lan
rộng và đến tận kinh đô. Nhà vua muốn biết hư thực ra sao, nhưng là người chuộng nhân
tài, sau khi suy nghĩ, vua bèn ban lệnh: Cả phủ Thanh Hóa, mỗi làng phải đem nộp một
con dê đực đang chửa. Sau hai tháng, nếu làng nào không có sẽ bị trị tội. Cái lệnh chéo
ngoe ấy tất nhiên làm dân chúng phủ Thanh Hóa shốt hoảng sợ hãi. Cả làng Quỳnh ở, ai
cũng nhớn nhác lo âu. Tìm đâu ra dê đực chửa? Mà từ xưa đến giờ đã nghe ai nói cái
chuyện lạ lùng ấy đâu! Thế nhưng, khi biết chuyện đó, Quỳnh nói với bố: - Chuyện gì chớ chuyện này xin bố đừng lo. Bố cứ bảo dân làng chuẩn bị cho con một
trăm quan tiền và gạo ăn đường, con sẽ kiếm được dê đực chửa cho làng. Nghe Quỳnh
nói vậy, ông bố không tin, nhưng cũng thưa lại vơi dân làng. Người tin kẻ nghi nhưng
không còn có cách nào khác, mọi người đành làm theo yêu cầu của Quỳnh. Sáng hôm
sau, hai cha con Quỳnh lên đường. Họ đến kinh đô khi nhà vua có việc đi qua cửa Đông.
Quỳnh nép xuống cống sát vệ đường chờ. Khi xa giá nhà vua đến gần, Quỳnh khóc rống
lên. Nghe tiếng khóc có vẻ lạ, vua sai lính lôi đứa trẻ đang khóc lên hỏi nguyên do.
Quỳnh vờ như không biết đấy là vua, càng gào to, kể lể:
- Mẹ tôi đã chết mấy năm nay, tôi nói mãi mà bố tôi không chịu đẻ em bé cho tôi bế…
Vua nghe nói câu ấy, bật cười bảo rằng:
- Ôi chao quả là một thằng bé đần độn. Ba mày là đàn ông mà đẻ làm sao được?
Chỉ đợi cho vua nói vậy, Quỳnh liền nín ngay, rồi đứng chắp hai tay lại, nói thật trang
nghiêm:
- Thưa ông, vậy mà nhà vua bắt dân làng tôi phải nộp dê đực chửa!
Nghe nói vậy, nhà vua giật mình, biết ngay đây là đứa bé thần đồng mà bấy lâu mình
vẫn nghe đồn.











=================================================================








Miệng kẻ sang
Bấy giờ Quỳnh đã hơi lớn, đang độ thiếu niên. Trên đường từ phủ về khát quá, Quỳnh
vào một quán nước bên đường. Trong quán có một viên quan, dáng oai vệ, đang ngồi
nhai trầu bỏm bẻm. Cạnh đó, có một lính vệ đứng hầu. Quan nhai xong, hách dịch vứt
miếng bã trầu ra đất.
Quỳnh đang ngồi uống nước, thấy ngứa mắt liền bước lại cuối nhặt lên, ngắm nghía
như muốn tìm kiếm cái gì, rồi đút vào túi.
Quan thấy lạ, hỏi:
- Mày là ai? Làm gì vậy?
Quỳnh làm bộ khúm núm đáp: - Bẩm, con là học trò nghèo, lâu nay thường nghe người ta nói "Miệng nhà quan có
gang có thép" muốn nhặt lên đem về coi thử có đúng thế không?
Biết mình bị xỏ, lại không biết tên học trò xấc xược này là Quỳnh, quan liền bảo:
- Đã xưng là học trò thì người phải đối ngay câu tục ngữ mà người vừa nói đó đi, hay
thì ta thưởng, dở sẽ đánh đòn. Mà nhớ là tục ngữ phải đối bằng tục ngữ, nghe chưa!
Quỳnh giả bộ rụt rè, thưa thưa bẩm bẩm:
- Con sợ mang tiếng xấc xược… Không dám đối.
Tưởng anh chàng học trò đang bí, quan bảo:
- Ta cho người cứ nói, còn đối không được thì nằm xuống để ta đánh đòn.
- Nếu thế thì con xin đối ạ.
- Được. Đối ngay đi, ta nghe thử!
Quỳnh thong thả đọc vế đối:
- "Đồ nhà khó vừa nhọ vừa thâm."
Nghe xong, mặt quan xám lại như tro bếp. Câu đối lại đúng là câu tục ngữ, không thể
bắt bẻ vào đâu được.
Biết ngồi lâu không tiện, quan giục lính hầu ra đi, quên bẵng lời hứa thưởng tiền cho
anh học trò nghèo.
Chẳng bao lâu, chuyện ấy lan ra khắp vùng, tên quan kia thì xấu hổ vì làm miệng
cười cho thiên hạ còn tiếng tăm của Quỳnh thì nổi như cồn.















================================================================












Phơi sách, phơi bụng
Quỳnh có một lão trọc phú. Lão này đã dốt lại thích học làm sang, thỉnh thoảng mò
đến nhà Trạng, đòi mượn sách. Tất nhiên lão có mượn được sách về thì cũng biết gì đâu
đọc. Quỳnh bực lắm, một bận, thấy lão lấp ló đầu cổng, Quỳnh vội vác ngay chiếc chõng
tre ra sân, cởi áo nằm phơi bụng. Lão trọc phú bước vào, thấy lạ, hỏi:
- Thầy làm gì thế? Quỳnh đáp:
- À! Có gì đâu! Hôm nay được cái nắng tôi đem phơi sách cho khỏi khô mốc
- Sách ở đâu?
Quỳnh chỉ vào bụng:
- Sách chứa đầy trong này!
Biết mình bị đuổi khéo, trọc phú lủi thủi ra về.
Bận khác, lão cho người mời Quỳnh đến nhà. Để rửa mối nhục cũ, lão bắt chước,
đánh trần, nằm giữa sân đợi khách…
Quỳnh vừa bước vào, lão cất giọng con vẹt, bắt chước…
- Hôm nay được cái nắng tôi nằm phơi sách cho khỏi mốc
Bất ngờ Quỳnh cười toáng, lấy tay vỗ bình bịch vào cái bụng phệ mà nói;
- Ruột nhà ông toàn chứa những của ngon chưa tiêu hết phải đem phơi, chứ làm cóc
gì có sách mà phơi!
Lão trố mắt kinh ngạc:
- Sao thầy biết?
Quỳnh lại cười toáng lên, lấy tay lắc lắc cái bụng béo ụ ị của lão:
- Ông nghe rõ chứ? Bụng ông nó đang kêu "Ong óc" đây này! Tiếng cơm, tiếng gà,
tiếng cá, lợn… Chứ có phải tiếng chữ, tiếng sách đâu. Thôi ngồi dậy, mặc áo vào nhà đi.
Lão trọc phú lủi thủi làm theo lời Quỳnh, và ngồi tiếp khách một cách miễn cưỡng.





================================================================




Chúa Liễu mắc lỡm

Lúc Quỳnh còn là học trò nhà nghèo, phải ra đền Sòng xin cấy rẽ. Đền Sòng quê ông là
nơi thờ Bà Chúa Liễu nổi tiếng rất linh thiên, không ai là không kinh sợ. Chúa Liễu có
nhiều ruộng và bà cũng cho cấy rẽ để lấy lợi. Lần ấy, Quỳnh vào đền khấn mượn đất
xong thì khấn quẻ âm dương hỏi Chúa là bà lấy gốc hay lấy ngọn trong vụ thu hoạch tới.
Lần đầu Chúa bảo lấy ngọn, thế là vụ ấy Quỳnh trồng khoai lang. Đến khi khoai đã có củ, đào khoai xong, Quỳnh đem hết củ về nhà còn bao nhiêu dây khoai Quỳnh đem để đền bà
chúa.
Lần thứ hai, xin âm dương, Chúa đòi lấy gốc để ngọn cho Quỳnh. Mùa ấy Quỳnh liền
trồng lúa. Đến mùa gặt, Quỳnh cắt hết bông và đem gốc rạ trả cho Bà Chúa!
Chúa Liễu hai lần bị Quỳnh lừa, tức giận lắm xong đã trót hứa rồi, không biết làm thế
nào được. Lần thứ ba, Quỳnh đến xin thì Chúa bảo lấy cả gốc lẫn ngọn, còn khúc giữa
cho Quỳnh, Quỳnh giả vờ kêu ca:
- Chị lấy thế em còn gì được nữa !
Khấn đi khấn lại mãi, Chúa nhất định không nghe, Quỳnh về trồng ngô, đến kỳ bẻ ngô
bao nhiêu bắp Quỳnh giữ lại, còn ngọn với gốc Quỳnh đem nộp cho Chúa.
Chúa mắc mưu Quỳnh ba lần, đòi lại ruộng, song trong ba vụ ấy, Quỳnh đã kiếm cũng
được cái vốn kha khá rồi.











==================================================================










Trả ơn bà chúa Liễu
Gặp khoa thi, Quỳnh ra ứng thí. Đường đi qua đền Sòng, Quỳnh vào yết Chúa Liễu, xin
Chúa phù hộ cho, đỗ thì xin trả lễ. Quỳnh ra thi, quả nhiên đỗ thật. Vinh quy về, Quỳnh
mua một con bò mẹ, một con bò con đem đến lễ. Quỳnh quỳ xuống lạy, rồi dắt con bò mẹ
đến buộc vào tay ngài mà khấn rằng:
- Chúa có lòng thương phù hộ cho Quỳnh được đỗ, nay gọi là có một con bò để trả lễ.
Xin Chúa nhận cho. Chúa là chị, xin lễ con lớn, còn con nhỏ, em xin đem về khao dân
Nói rồi, dắt bò con về. Con bò mẹ thấy dắt mất con đi, lồng lên chạy theo, làm ngai
Chúa đổ lổng chổng, lộng gãy cả. Quỳnh cười nói:
- Chị thương em nghèo, trả không lấy, thì em xin đem về vậy.
Nói rồi dắt cả hai mẹ con bò về.













===================================================================






Đầu to tạ chúa Liếu ba bò
Chuyện Quỳnh lừa bà Chúa Liễu chỉ cúng bò bằng lời khấn suông, lại còn làm đổ gãy cả
tai ngai, làm Chúa giận lắm, nên Chúa bắt vợ Quỳnh ốm lăn ốm lóc. Theo yêu cầu của
vợ, Quỳnh đành phải đến đền khấn, để Chúa Liễu giải hạn cho. Quỳnh đến, khấn:
- Em lỡ đùa với chị, em có lỗi, thì chị quở em, sao chị lại phạt vợ con em bắt phải ốm,
mà họ có tội tình gì? Em xin chị tha cho vợ con em, và xin lần này sẽ tạ chị ba bò, em sẽ
để ở ngoài sân, chứ không dám vào đền, chị yên tâm, khỏi phải lo gãy đổ.
Chúa Liễu nghe Quỳnh nói lễ những ba bò thì mừng lắm. Lại hứa cúng ở ngoài sân,
như thế, thì Quỳnh cũng tỏ ra biết điều.
Khi vợ con hết ốm, Quỳnh lững thững đến đền với đôi tay không, rồi đứng trước bàn
thờ Chúa Liễu, chắp tay khấn:
- Chị đã phù hộ cho vợ con em tai qua nạn khỏi, biết ơn chị, nay giữ đúng lời hứa, em
xin tạ chị đủ "Ba bò" ở ngay tại sân đền.
Nói xong, Quỳnh từ từ lui ra, rồi quỳ xuống, bò đúng ba vòng trước sân. Bò xong,
Quỳnh phủi tay, đứng dậy, ngoảnh mặt vào phía bàn thờ Chúa Liễu cười:
- Thế là chị sướng nhá! Em tạ chị lần này những "Ba bò" đấy!
Xong, Quỳnh ung dung bước ra về, để lại nỗi tức giận tràn hông cho Chúa Liễu













===========================================================








Quỳnh cúng Thần Hoàng
Lần khác, vợ Quỳnh ốm, thuốc thang chữa mãi không khỏi, xem bói, thì ra không phải
tại Chúa Liễu mà do động Thành Hoàng bản thổ. Quỳnh ra đình khấn vái, xin Thành
Hoàng cho khỏi, sẽ sửa gà lễ tạ. Khấn xong, về đến nhà thì vợ đã khỏi rồi. Bà vợ giục
làm gà lễ tạ, Quỳnh bảo:
- Được, nhà không có gà ta có cái khác để lễ tạ rồi. Rồi Quỳnh vào ổ gà, thủ hai quả
trứng, đem luộc. Người nhà tưởng luộc để đánh gió. Một lúc, Quỳnh khăn áo chững chạc,
cầm cái đĩa và hai quả trứng đi. Người nhà lấy làm lạ, đi theo xem, thì thấy Quỳnh vào
đình để đĩa trứng lên hương án rồi đứng đọc bài văn tế nôm rằng:
Chú là kẻ cả trong làng, Ta là người sang trong nước,
Đôi bên chức tước chả kém gì nhau.
Vì trẻ nó đau, phải ra khấn vái.
Phiên chợ thì trái, không mua được gì.
Nhà có con ri nó vừa nhảy ổ,
Bắt ra mà mổ, nghĩ cũng thương tình,
Chú có anh linh, xơi hai trứng vậy.
Khấn xong, chẳng lễ, chẳng vái gì trở ra về nói với vợ là yên tâm dưỡng cho thật lành
bệnh bởi Thần hoàng đã nhận lễ mà bằng lòng rồi. ========













=================================================================










Bà banh hết cả linh thiên
Hồi ấy, gần xứ Quỳnh ở, có một pho tượng đá rất kỳ lạ, trần truồng đứng giữa đồng,
miệng tủm tỉm cười, tay trỏ xuống chỗ kín, gọi là tượng bà Banh.
Pho tượng kỳ cục vậy nhưng linh lắm, ai đi qua trông thấy, nhếch mép cười thì không
xếch mồm cũng méo miệng. Đồn rằng đó là chỗ người Tàu giấu của, thiêng lắm. Quỳnh
nghe đồn, đi xem. Đến nơi thấy tượng trần truồng mà chân lại đi giày, cổ đeo hạt. Quỳnh
không cười không nói, cầm bút đề ngay vào ngực tượng một bài thơ nôm rằng:
Khen ai đẽo đá tạc nên thầy!
Khéo đứng ru mà đứng mãi đây?
Trên cổ đếm đeo dăm chuỗi hạt.
Dưới chân đứng chéo một đôi giày,
Ấy đã phất cờ trêu ghẹo tiểu,
Hay là bốc gạo thử thanh thầy?
Có ngứa gần đây nhiều gốc dứa,
Phô phang chi ở đám quân này.
Quỳnh đề thơ xong, bỏ đi. Tượng đá bỗng toát mồ hôi ra từ đó mất thiêng













===============================================================




Phật say Làng Thụy Chương xưa là một làng nổi tiếng về nấu rượu. Rượu ở đây thơm ngon đặc
biệt.
Mé trước làng ở ven hồ Tây có một ngôi chùa nhỏ. Thời Lê Trung Hưng, chùa đổ nát
chỉ còn trơ một pho tượng tay chống gậy, xiêu vẹo, nghiêng ngả.
Một hôm Quỳnh vào làng mua rượu, thấy pho tượng như vậy, mới làm mấy câu thơ
đùa:
Ông đứng chi mà đứng mãi đây?
Dập dềnh như tỉnh lại như say,
Vãi nào đã chuốc cho ông rượu?
Còn có cho vay một nậm đầy?
Tương truyền từ đó, dân làng ai cũng gọi tượng là "Phật say".











=======================================================






Dòm nhà quan Bảng

Tương truyền rằng Quỳnh sinh cùng thời với nữ sĩ nổi tiếng, người đã dịch Chinh Phụ
Ngâm của Đặng Trần Côn ra thơ Nôm là Đoàn Thị Điểm.
Ngày ấy, Quỳnh đã thành niên, nhà quan Bảng sinh ra thị Điểm, dạy học trò đông
lắm. Quỳnh ngày ngày giả vờ đến xem bình văn, để ngấp nghé cô Điểm. Học trò biết ý,
vào thưa với quan Bảng, ngài liền cho bắt vào hỏi:
- Anh kia, anh muốn gì mà cứ thậm thò thậm thụt vào ra nơi đây?
Quỳnh thưa:
- Tôi là học trò, thấy trường quan lớn bình văn, tôi đến nghe trộm.
Quan Bảng nói:
- Ta biết rồi, anh đừng giả danh học trò mà bắt chước tuồng chim chuột. Có phải học
trò thì ta ra cho một câu đối, không đối được thì đánh đòn!
Quỳnh vâng.
Quan Bảng ra một câu:
- "Thằng quỷ ôm cái dấu đứng cửa khôi nguyên."
Quỳnh ứng khẩu đối ngay:




- "Con mộc dựa cây bàng dòm nhà Bảng nhãn."
Quan Bảng ngạc nhiên vô cùng. Câu đối phải nói vào loại "Hóc" thế mà Quỳnh đọc
ngay không cần nghĩ ngợi gì chứng tỏ phải là người thông minh xuất chúng. Ông có bụng
yêu, bèn giữ Quỳnh lại nuôi cho ăn học. Từ ngày đó, như rồng gặp mây, Quỳnh học tấn
tới lắm, kỳ nào văn cũng được đọc mẫu. Từ ngày trường quan Bảng có Quỳnh, bao nhiêu
học trò danh sĩ đều phải nhận Quỳnh là tài giỏi hơn cả.
Quan Bảng thấy Quỳnh học giỏi, có ý muốn gả cô Điểm cho, mà cô Điểm nghe cũng
thuận.
Quỳnh biết rằng cô Điểm chắc vào tay mình rồi, thỏa được ước nguyền, song tính
tinh nghịch, cứ đùa cợt luôn. Cô Điểm đứng đắn, thùy mị lại không ưa kiểu chớt nhả,
Quỳnh lại càng ghẹo dai. Chính vì vậy mới có những cuộc đối đáp lý thú về sau này…

















=============================================================








Thừa giấy vẽ voi

Trong lần thi hội Cống, Quỳnh không có ý định để lấy Trạng Nguyên, nên Quỳnh
nhận lời.
Lúc vào trường thi, Quỳnh làm bài rất nhanh, xong sớm trước nhiều thí sinh khác. Lẽ
ra Quỳnh đem nộp quyển, nhưng vì chẳng thiết chuyện đỗ đạt, nên tái mái dở bài ra xem
lại. Thấy còn một đoạn giấy trắng bên dưới, Quỳnh liền chấm bút vẽ một bầy voi, rồi tiện
tay đề luôn bên cạnh mấy câu thơ ngẫu hứng:
Văn chương phú túc đã xong rồi
Thừa giấy làm chi chẳng vẽ voi?
Tớ có một điều xin bảo thật
Đứa nào cười tớ, nó ăn boi. Quỳnh làm như vậy là cố ý chọc tức các quan chủ khảo, họ sẽ điên tiết lên khi đọc
những dòng này và sẽ đánh hỏng Quỳnh với tội "Phạm trường quy". Thực ra Quỳnh đâu
cần sự thăng quan tiến chức.
Lúc ấy, có viên quan giám thị theo dõi, liếc thấy bài thơ tứ tuyệt ngạo mạn của
Quỳnh, liền chạy đi báo với ban giám khảo. Quan sơ khảo và quan phúc khảo rón rén đến
dòm thử thì quả đúng như vậy. Quỳnh biết các hành động của ban giám khảo, nhưng cứ
tảng lờ coi như không. Đợi đến lúc các quan trường xúm lại đông đảo, Quỳnh mới đưa
bút viết tiếp hai câu thơ nữa vịnh bức tranh voi vừa vẽ:
Voi mẹ, voi con, voi lúc nhúc
Chú sơ, chú phúc, rúc mà coi.
Đám quan viên lúc này cảm thấy sượng sùng nên bấm nhau rút lẹ, đứng lâu ở đó e
không khéo lại bị Quỳnh chơi khăm, mất mặt nữa.












=============================================








Ngọc Người
Chúa Trịnh có một viên ngọc quí, suốt ngày nâng niu, giữ gìn rất cẩn thận. Nhân một
buổi dạ tiệc, chúa đem ngọc ra khoe. Các quan nhiều kẻ có thói hay nịnh bợ, đua nhau tán
tụng. Kẻ thì nói: "Ngọc của chúa quý hơn ngọc của rắn, mang vào người, có thể nghe
được tiếng chim kêu, tiếng sâu, kiến!". Kẻ khác lại nói: "Ngọc của chúa quý hơn ngọc rết,
giữ ngọc rết trong người dao chém không đứt, tên bắn không trúng, xông pha trận mạc
như đi vào chỗ không người!". Kẻ khác lại ngọt ngào: "Ngọc của chúa quý hơn ngọc ba
tiêu, lấy trong cây chuối, ba nghìn năm mới có một lần, giữ được ngọc này thì thoát tục,
tới được cõi bồng lai, lại có thể phân biệt được đâu là yêu quái, đâu là người trần tục!".
Nhiều kẻ thi nhau tán tụng, nào đó là ngọc kỵ thuỷ, ngọc kỵ hỏa v.v…
Thấy Quỳnh vẫn đứng yên không nói năng gì, chúa bèn hỏi. Quỳnh chắp tay cung
kính thưa:
- Bẩm chúa, trong cõi trời đất này, không có gì quý bằng người. Ngọc rắn, ngọc rết có
quí, những sau dám sánh bằng ngọc người? Ngọc người thì chỉ nằm trong óc người.
Nhưng chỉ kẻ nào ngu ngốc mới có ngọc, còn khôn ngoan, thông minh thì không thể có
được!
Chúa hỏi:
- Vì sao người ngu ngốc mới có ngọc? Quỳnh đáp: - Chúa chả nghe người ta bảo người khôn thì anh hoa phát tiết ra ngoài
đó ư? Còn kẻ ngu ngốc vì bao nhiêu cái khôn không xuất ra được nên hun đúc trong óc
rồi lâu ngày dẫn thành ngọc!
Chúa nghe vậy thì tin, thích lắm bảo rằng:
- Ngươi nói nghe có lý. Vậy thì ngươi mau tìm cho ta một viên ngọc người vậy!
Quỳnh lại tâu:
- Kẻ hạ thần tuy là người trần mắt tục nhưng vẫn thấy hào quang đang tỏa rạng quanh
mình chúa.
Đám bá quan văn võ ưa xu nịnh nghe thế được dịp dập đầu thanh hô vang:
- Muôn tâu, hào quang tỏa rạng quanh mình chúa thượng. Hào quang tỏa rạng quanh
mình chúa thượng! Chúng thần nhìn rõ lắm!
Nghe lời nịnh ấy, chúa vô cùng thích chí, mặt mày rạng rỡ. Quỳnh tiếp ngay:
- Tâu chúa thượng, đó chính là hào quang của viên ngọc. Nếu chúa muốn thấy nó, xin
chúa hãy truyền cho ngự y tìm cách mổ óc ra sẽ được ngọc ngay! Chúa chợt hiểu ra mình
bị chơi xỏ, tức uất người ngưng chỉ đành câm lặng trong khi bọn quan nịnh thì chả hiểu
sao chúa vừa vui vẻ đã quay sang bực bội.













================================================












Đơn xin chôn trâu

Một cô gái ở thôn Hoằng Trì có con trâu chết đã ba ngày, trâu trương lên thối um mà bọn
chức dịch trong làng vẫn cứ làm khó dễ, chưa cho chôn. Cô đợi mãi không được, bèn
mang đơn lên trình quan huyện.
Trên đường đi, đến một chỗ lầy lội, cô gặp một anh chàng ra dáng học trò. Anh kia hỏi
thăm biết chuyện, mượn cô lá đơn xem lỡ tay đánh rơi xuống bùn. Cô gái bắt đền. Anh
học trò liền đem giấy bút ra, thảo ngay tờ đơn khác cho cô. Đơn rằng:

Ta là gái goá kẻ trị
Nếu trâu không chết việc chi lụy đời?
Lội đồng váy hếch đơn rơi,
Ta phải cậy người mần lại đơn nị
Quan tri ơi hỡi quan tri!
Xác trâu chết để ba ngày thối hoăng
Xét đơn phải xử công bằng Không thì bút… cho thằng mần đơn.
Anh kia viết xong, cô gái thật thà cầm đơn vào trình quan. Xem xét chữ nghĩa và lời lẽ,
viên tri huyện nghi hoặc, hỏi cô gái ai là người cô đã nhờ viết đơn. Cô gái kể rõ mọi
chuyện chuyện đã xẩy ra trên đường. Tri huyện lặng người, biết ngay kẻ đó là Trạng
Quỳnh chứ không ai khác. Tuy tức vì bị chửi xỏ, quan cũng đành chấp thuận cho cô gái
kia được về chôn trâu mà không phải nộp phạt.













==================================================




Mẹo trẩy kinh
Mùa đông năm ấy, Quỳnh có việc đi gặp người bà con đang sinh sống ở Thăng Long.
Đường về kinh thì xa, cuốc bộ phải mất cả tuần, mà Quỳnh vẻn vẹn có một quan tiền giắt
lưng. Mới ngày thứ ba túi đã hết nhẵn tiền, chiều xuống, trời âm u, lại điểm mưa lâm
thâm, gió bấc. Đến đầu làng kia, bụng đói cồn cào, vừa may gặp một đứa bé mục đồng
dắt trâu về xóm, Quỳnh mừng rỡ hỏi thăm lối vào nhà ấp trưởng.
Ấp trưởng làng này vừa giàu sụ, vừa nổi tiếng quỷ quyệt. Qua vài lời chuyện trò với
người lỡ độ đường, hắn đoán thầm khách không phải là hạng tầm thường, bèn vồn vã mời
nghỉ lại và sai giai nhân làm mâm cơm thịnh soạn để thết đãi. Nhưng mấy ngày liền,
khách cứ đi đi lại lại, rồi đến bữa nằm dài đợi cơm rượu hỏi đến chức danh công vụ thì cứ
ậm ậm ờ ờ. Chủ nhà sốt ruột, sinh nghi. Như thường lệ, tối hôm ấy ăn xong một lúc,
Quỳnh cáo lui về phòng riêng giáp với phòng ngủ của chủ nhân. Được một chập, Quỳnh
tắt đèn lên giường nằm. Biết ở phòng bên có người vẫn thức rình mò mọi hành vi của
mình, lát sau Quỳnh vờ thức dậy rón rén thắp đèn, sau đó cẩn thận lần dưới vạt áo, lấy ra
một bọc nho nhỏ bên trong có ba gói vuông, bản bằng nhau. Khách cầm bút long chấm
chấm, mút mút đầu ngòi, hí hoái viết vào từng gói như để đánh dấu cho khỏi nhầm lẫn
(thực ra chẳng viết gì cả), miệng lẩm nhẩm đọc, cố ý cho kẻ đang rình bên kia khe vách
vừa đủ lắng nghe: Độc dược của nhà chúa… Độc dược của bà chính cung… Độc dược của
thái tử. Làm như vậy, đoạn Quỳnh đem gói chung thành một bọc như cũ, giắt vào lưng
áo. Xong rồi tắt đèn, lên giường nằm trở lại. Khi phòng bên này bắt đầu tiếng ngáy đều
đều, thì phòng bên vọng sang tiếng động khe khẽ. Tên ấp trưởng bí mật mở chốt cửa ra
ngoài, lẻn đến chuồng ngựa… Hộc tốc lao đi trong đêm.
Sáng hôm sau, mới hửng sáng, quan quân từ đâu ập tới nhà ấp trưởng đông nghịt,
gươm giáo tua tủa vây kín mọi phía. Quỳnh mở mắt, chưa kịp búi tóc đã bị trói nghiền
lại, quẵng lên một chiếc xe có bốn ngựa kéo, trẩy về kinh.
Trước phủ chúa, Quỳnh bị điệu ra xét xử với nhân chứng và vật chứng rành rành.
Chúa đích thân tự tay mở tang vật. Té ra chẳng có gì ghê gớm! Chiếc bọc được gói kỹ
lưỡng trong mấy lần mo cau, phủ ngoài bằng một vuông vải điều là chiếc bọc chứa ở bên
trong mấy gói cơm khô nhỏ, Chúa lấy mũi hài đá té nắm cơm về phía Quỳnh, hất hàm tỏ
vẻ khinh miệt: - Ta tưởng thế nào… Tài giỏi như Trạng mà cũng ăn cả cái vứt đi này à?
- Khải chúa.
- Quỳnh đáp lại không chút ngần ngừ, nhà chúa thừa thãi mới gọi đó là của vứt đi.
Còn thần dân bên dưới đâu dám phung phí một hạt, họ gọi cơm gạo là ngọc thực.
Nói rồi, Quỳnh trân trọng nhặt lấy mấy hạt cơm khô bỏ vào mồm nhai rào rạo. Chúa
biết mình lở lời, đỏ bừng mặt, lại thêm một phen mắc lỡm, tức lộn ruột. Không có cớ gì
buộc tội Quỳnh, chúa truyền nọc tên ấp trưởng ra, bắt lính đánh ba chục trượng vì tội nói
láo và báo sai.
Trước cảnh tượng ấy, Trạng chỉ biết mỉm cười. Mặc dầu đã được tha bổng, trước khi
bái biệt bề trên, Quỳnh vẫn không quên giễu chúa bằng những câu khéo:
- Xin chúa rộng lượng tha thứ cho ấp trưởng. Và cho thần được cảm ơn hắn cùng
quan quân triều đình.













============================================




Lõm Quan Thị
Có một ông quan thị đại nịnh thần, được chúa Trịnh yêu lắm. Ôss;ng ta thường đến
chơi nhà Quỳnh, thấy sách thì cũng mượn xem, mà ít khi trả. Quỳnh ghét cay ghét đắng,
định chơi xỏ một trận cho chừa. Quỳnh bèn lấy giấy trắng đóng thành quyển sách để sẵn.
Một hôm. Thấy bóng quan thị đằng xa, Quỳnh giả vờ cầm sách xem, đợi khi ông ta đến
nơi thì giấu đi. Quan thị thấy Quỳnh giấu, ngỡ là sách lạ, đòi xem, Quỳnh bảo:
- Sách nhảm có gì mà xem.
Quan thị năn nỉ mãi cũng không được, về tâu với chúa. Chúa đòi Quỳnh sang hỏi,
Quỳnh đoán chắc là đòi về chuyện quyển sách, mới lấy bút viết mấy câu vào sách bỏ vào
tráp khoá lại, rồi sang hầu. Quả nhiên như thế. Quỳnh tâu:
- Không có sách gì lạ, chắc thị thần tâu man với Chúa đó.
Chúa thấy Quỳnh chối, lại càng tin là Quỳnh có sách lạ, bắt phải đem trình. Quỳnh sai
người về đem tráp sang, mở ra, chỉ thấy có một quyển sách mỏng, Quỳnh rụt rè không
dám đưa. Chúa bảo:
- Cứ đưa ra. Chúa mở ra xem chỉ thấy có mấy câu:
- "Chúa vị thị thần viết: Vi cốt tứ dịch, vi cốt tứ dịch. Thị thần quy nhị tấu viết: Thần
phùng chỉ phát, thần phùng chỉ phát".
Chúa ngẫm nghĩ đi lại không biết nghĩa ra làm sao, bảo Quỳnh cắt nghĩa thì Quỳnh
rụt rè tâu:
- Sách ấy là sách nhảm nhí của tiểu thần chỉ xem khi buồn, sợ cắt nghĩa ra, rác tai
chúa!
Chúa nhất định không nghe, bắt Quỳnh cắt nghĩa cho được.
Quỳnh vâng lệnh tâu với chúa, câu ấy nghĩa là: " chúa hỏi thị thần rằng:
Làm xương cho sáo, làm xương cho sáo, thì thần quỳ mà tâu rằng: Tôi may ngón tóc,
tôi may ngón tóc"
Quỳnh cắt nghĩa, nhưng chúa cũng chưa hiểu ra lại hỏi:
- Đã đành nghĩa đen là thế, nhưng mà ý tứ thế nào? Quỳnh tủm tỉm không dám nói. Chúa và quan thị đứng hầu bên càng gặng hỏi.
Quỳnh mới tâu:
- Xin chúa đọc đảo ngược lại thì ra nghĩa, nhưng mà tục lắm. Bấy giờ chúa với quan
thị mới biết Quỳnh lõm, bảo Quỳnh mang sách về.
Quỳnh ra, quan thị chạy theo trách Quỳnh nhạo cả chúa, thực là vô phụ, vô quân.
Quỳnh đáp lại:
- Ngài nói tôi vô phụ, vô quân thì bọn thập trường thị đời Hậu Hán là gì? Tôi đã giấu
mà ngài cứ nịnh để đòi ra cho được thì lỗi tại ai?
Quan thị tịt mất.















=========================================================










Chửi……Vua Một hôm, Quỳnh cho người ra bảo các hàng thịt là ngày mai Trạng đặt tiệc đãi các
quan, cần mỗi hàng bán cho mấy cân, nhưng phải thái sẵn cho đỡ mắc công người nhà.
Các hàng thịt mừng rỡ, sáng sớm đã thái thịt để đấy chờ người nhà Trạng đến lấy. Ai ngờ
đợi mãi đến trưa mà cũng chẳng thấy ai, họ bèn tới nhà Trạng thì nhà vắng tanh, chẳng có
khách khứa gì cả. Hỏi trạng thì Trạng bảo không biết: "Chắc là có đứa nào muốn lõm bà
con đấy. Cứ gọi thằng nào bảo thái mà chửi":
Bọn hàng thịt tức mình về cứ gọi thằng bảo thái mà chửi:
- Tiên sư thằng "Bảo thái"! Tiên sư thằng "Bảo thái".
Bảo Thái là niên hiệu nhà vua. Thành thử vua bị dân hàng thịt chửi một bữa inh cả
phố. Đương nhiên ai cũng biết cái chuyện xỏ xiên này chỉ có Trạng Quỳnh mới nghĩ ra
được nhưng cũng đành làm thinh vì biết lấy bằng cớ gì mà bắt tội Quỳnh?



















[size=4]CÒN NHIỀU LẮM , MONG ACE TKS ỦNG HỘ KIẾM KENG ![/size]




3congratz3








































































































































































Không thể thực hiện tác vụ do chủ đề hiện đang ở trạng thái lưu trữ

Chủ đề cùng mục


Lời Ca Khúc Điểm nhanh Hợp âm az Chords up Tin xe nói về xe

Bản quyền bởi VietYO.com v3.0 - Viet Nam Youth Online
Diễn đàn mở của cộng đồng người Việt trẻ online - Liên hệ (info @ vietyo.com)