Chuyện lạ 2011-06-24 02:21:06

Waffen SS đội quân siêu đẳng của Hít Xờ Le :))


[size=6]CHữ Hơi Nhiều nên em ráng post nhiều hình vào anh em ráng đọc nhá [/size]



[size=3]Allgemeine-SS[/size] là cảnh sát kiêm mật vụ của * Nazi. Trong chiến tranh một số sỹ quan SS tình nguyện ra mặt trận nên được gọi là Waffen SS (Armed SS).

Schutzstaffel (gọi tắt SS, có nghĩa "đội bảo vệ") là tổ chức quân sự của * Đức Quốc xã, mặc đồng phục màu đen nên còn được gọi là "Quân áo đen" để phân biệt với lực lượng SA là "Quân áo nâu". SS khởi đầu là đội cận vệ cho cấp lãnh đạo Quốc xã, chỉ khi được đặt dưới quyền chỉ huy của Heinrich Himmler năm 1929 mới lớn mạnh, có hệ thống quân hàm tương tự như trong quân đội Đức nhưng với tên gọi khác, có đồng phục và quân phù riêng.
Cơ cấu tổ chức
Tổ chức của SS trải qua nhiều thay đổi trong từng thời kỳ. Trong giai đoạn Thế chiến II (1939-1945), SS được cho là "nhà nước trong một nhà nước," có cơ cấu như sau:
• Thủ lĩnh: Heinrich Himmler (1929–1945), Karl Hanke (1945).
• Thủ lĩnh SS và Cảnh sát: chỉ huy những đơn vị SS khác nhau trên một vùng rộng, tương tự như Xứ ủy của * Quốc xã.






Lực lượng SS diễu hành
• Tổng hành dinh SS: được chia ra thành 12 cơ quan điều hành mọi hoạt động của SS, như Cơ quan Trung ương An ninh Đế chế (RSHA), Cục Kinh tế và Hành chính (WVHA) dưới quyền của Cục Kinh tế và Hành chính.
• Thủ lĩnh Danh dự SS: phong cho cấp lãnh đạo chính quyền, như Bormann, Henlein, Ribbentrop, Weizsäcker…
Theo chiều ngang, SS được chia ra thành từng bộ phận chuyên biệt, như:
• SS Tổng quát (Allgemeine SS).
• SS Kỵ binh (Reiter-SS).
• Liên minh Đầu lâu (Totenkopfverbände, gọi tắt SS-TV), ban đầu gồm những đơn vị cấp trung đoàn phụ trách các trại tập trung, đến năm 1944 gồm có 3 sư đoàn, các trại tập trung được giao lại cho WVHA.
• Đội Đặc nhiệm (Einsatzgruppen), gồm 4 đội A, B, C và D.
• SS Vũ trang (Waffen-SS): do Heinrich Himmler làm tư lệnh.
• Cảnh sát Trật tự (Ordnungspolizei, gọi tắt Orpo): quy tụ cảnh sát các cấp trung ương và địa phương, Cảnh sát Đường sắt, Cảnh sát Đường thủy, bảo vệ tại các cơ quan…


Vài cơ quan chính yếu thuộc
Gestapo
Gestapo là tên gọi tắt của Geheime Staatspolizei, là lực lượng cảnh sát bí mật (hoặc Mật vụ).
Tổ chức này khởi đầu được Hermann Göring với tư cách Thống đốc Bang Phổ thành lập vào năm 1933 cho Bang Phổ, là công cụ mà ông sử dụng để giam cầm và sát hại những đối thủ của * Quốc xã. Khi Göring bổ nhiệm Heinrich Himmler làm chỉ huy phó Gestapo Phổ, lực lượng này bắt đầu mở rộng thành một nhánh của SS rồi nắm quyền sinh sát trên toàn nước Đức.
Nhiệm vụ chính của Gestapo là tình báo an ninh, nhưng cũng đảm trách thêm việc thành lập và điều hành trại tập trung. Đặc biệt, Gestapo phụ trách những nhân vật có tiếng tăm trong và ngoài nước như tướng lĩnh, cựu *, cựu bộ trưởng… Gestapo thường thi hành nhiệm vụ theo dõi, giam giữ, tra tấn và – khi có lệnh của chính Hitler hoặc Himmler – thủ tiêu những người này.
Các chỉ huy trưởng của Gestapo là Rudolf Diels (1933-1934), Hermann Göring (1934-1936), Reinhard Heydrich (1936-1939) và Heinrich Müller (1939-1945).
Sicherheitsdienst
Sicherheitsdienst (có nghĩa “Cơ quan An ninh”), gọi tắt SD, là cơ quan tình báo của SS, được thành lập năm 1931 dưới quyền Heydrich, sau 1939 thuộc cơ quan RSHA, từ năm 1944 nắm luôn Quân báo. Chức năng của SD là rình rập * viên và báo cáo hành động khả nghi. Năm 1938, một luật mới giao nhiệm vụ cho SD bao trùm cả Đế chế thứ Ba.
Dưới bàn tay lão luyện của Heydrich, cựu sĩ quan quân báo trong Hải quân, chẳng bao lâu SD giăng lưới hoạt động toàn quốc, sử dụng 100.000 người làm mật báo viên bán thời gian. Những người này nhận chỉ thị theo dõi dân chúng và báo cáo bất cứ biểu hiện lớn nhỏ cho thấy sự chống đối *. Không một ai – nếu không phải là điên rồ – nói và làm điều gì có thể bị ghép là “chống Quốc xã” mà không kiểm tra trước liệu lời nói có bị thu âm lén hoặc bị nghe trộm hay không. Người dân không biết được liệu con trai, hoặc người cha, người vợ, anh em họ, bạn thân, người chủ hoặc thư ký là mật báo viên cho SD hay không, và tốt hơn là không nên tin ai cả.
Waffen-SS
Waffen-SS (SS vũ trang) được phát triển như đội quân thứ hai bên cạnh quân chính quy, gồm 40 sư đoàn tác chiến gồm 800-950 nghìn người (các nguồn khác nhau cho con số khác nhau, có lẽ vì thời điểm khác nhau). Tòa án Nürnberg ghi là lúc chiến tranh kết thúc, Waffen-SS còn 580.000 quân. Tư lệnh của Waffen-SS là Himmler.




Sư đoàn thứ 28 của Waffen-SS được tái hiện lại ở Sanok, Ba Lan vào tháng 5 năm 2007.
Waffen-SS quy tụ những binh sĩ thiện chiến nhưng cuồng tín chủ nghĩa Quốc xã. Vì lý do này, họ bị hoen ố thanh danh do việc sát hại tù binh Đồng minh. Ví dụ, 77 lính Mỹ bị bắt làm tù binh đã bị 74 lính SS thuộc Sư đoàn Cận vệ 1 Tăng SS dưới quyền Đại tá Jochen Peiper hành quyết gần Malmédy ngày 17 tháng 12 năm 1944. Dựa trên chứng cứ được trình trước Tòa án Nürnberg, 43 sĩ quan SS (trong đó có Peiper) bị tử hình, 22 bị án tù chung thân và 8 chịu án tù từ 10 năm đến 20 năm. Tư lệnh Tập đoàn quân 6 Tăng SS Sepp Dietrich nhận án chung thân, sau giảm còn 25 năm tù, Tư lệnh Quân đoàn 1 Tăng SS Fritz Kraemer chịu 10 năm tù. Thế rồi Thượng viện Mỹ lớn tiếng phản đối, cho rằng các sĩ quan Waffen-SS đã bị đối xử tàn bạo để chịu cung khai. Các án tử hình lần lượt được giảm thành án tù, rồi cuối cùng tất cả đều được trả tự do. Trong sự ồn ào về việc đối xử tệ hại với sĩ quan Đức, người ta đã quên đi sự kiện là 77 tù binh Mỹ không có vũ khí trong tay bị hành quyết một cách dã man trên một cánh đồng phủ tuyết do lệnh hoặc khuyến khích của vài sĩ quan Waffen-SS.
RSHA
RSHA (Reichssicherheitshauptamt – “Cơ quan Trung ương An ninh Đế chế”), được thành lập năm 1939 bằng cách sáp nhập các bộ phận: SD, Mật vụ và Cảnh sát Hình sự. Chức năng chính thức là chiến đấu chống "các kẻ thù của Đế chế" kể cả *, người Do Thái và những “thành phần chủng tộc bất hảo." Giám đốc đầu tiên của RSHA là Reinhard Heydrich (1939-1942), kế tiếp là Ernst Kaltenbrunner (1942-1945).
RSHA được chia ra thành 7 phòng (Ämter hoặc Amt):
Amt I: Nhân viên và Tổ chức, dưới quyền SS Trung tướng Bruno Streckenbach.
Amt II: Hành chính, Luật và Tài chính, dưới quyền SS Đại tá TS. Hans Nockemann.
Amt III: Tình báo nội bộ, cũng phụ trách người gốc Đức ở vùng biên giới và các vấn đề văn hóa, dưới quyền Otto Ohlendorf.
Amt IV: Gestapo (Mật vụ), dưới quyền Heinrich Müller. Trung tá SS Adolf Eichmann đứng đầu Ban Người Do Thái của Amt IV.
Amt V: Cảnh sát Hình sự phụ trách tội trạng không thuộc lĩnh vực chính trị, dưới quyền Arthur Nebe.
Amt VI: Tình báo hải ngoại, dưới quyền Heinz Jost, kế tiếp là Walter Schellenberg tiếp quản Quân báo của Đô đốc Wilhelm Franz Canaris.
Amt VII: Thư khố, phụ trách công tác “ý thức hệ” và tuyên truyền, dưới quyền GS. Franz Six.
WVHA


WVHA (Wirtschafts-Verwaltungshauptamt – Cục Kinh tế và Hành chính) là cơ quan đặt trong Tổng hành dinh SS, có nhiệm vụ điều hành những hoạt động sản xuất và cung ứng (như hàng hậu cần và lao động nô lệ) cho Lực lượng SS và Quân đội, cũng phụ trách khai thác nguồn lợi kinh tế ở các trại tập trung và trại thủ tiêu, đến năm 1945 quản lý hơn 500 cơ sở sản xuất trên nước Đức và một số cơ sở sản xuất, hầm mỏ ở vùng chiếm đóng như Liên Xô.
Một trong những nhiệm vụ của WVHA là khai thác vàng trám trong hốc răng người Do Thái bị tàn sát. Đôi lúc người sống bị cạy vàng trước khi bị hành quyết.
Ví dụ, một báo cáo mật của quản đốc trại giam tại Minsk cho biết từ khi ông có dịch vụ của một nha sĩ người Do Thái, mọi người Do Thái “đều bị cạy vàng từ răng của họ… luôn luôn là 1 hoặc 2 tiếng đồng hồ trước khi thực hiện hành động đặc biệt.” Vàng được nấu chảy rồi được chuyển về Ngân hàng Nhà nước Đức cùng với những món có giá trị khác, được đưa vào tài khoản của SS dưới tên “Max Helliger” theo sự thỏa thuận giữa Himmler và TS. Walther Funk, Thống đốc Ngân hàng. Những vật có giá trị gồm đồng hồ bằng vàng, bông tai, vòng đeo tay, nhẫn, dây chuyền, và ngay cả tròng kính – vì người Do Thái được khuyến khích mang theo mọi vật có giá trị để được “tái định cư.” Cũng có nhiều nữ trang, đặc biệt là kim cương, và một lượng lớn các món làm bằng bạc. Và cũng có rất nhiều xấp tiền mặt.
Đến đầu năm 1942, phẩm vật thuộc tài khoản “Max Helliger” đã chiếm đầy các tủ sắt của Ngân hàng Nhà nước. Ban giám đốc Ngân hàng luôn nghĩ đến tạo lợi nhuận, thế nên họ tìm cách chuyển các phẩm vật thành tiền mặt bằng cách đưa đến các hiệu cầm đồ. Một bức thư của Ngân hàng Nhà nước gửi hiệu cầm đồ Thành phố Berlin nói về “chuyến vận chuyển thứ hai: và liệt kê số lượng của đồng hồ bằng vàng, bông tai, nhẫn kim cương…
Đến đầu năm 1944, đến phiên các hiệu cầm đồ cũng đầy ắp các món cướp bóc được và thông báo cho Ngân hàng Nhà nước là họ không thể nhận thêm. Khi quân Đồng minh tiến vào Đức, họ tìm ra trong những mỏ muối, nơi Quốc xã cất giấu hồ sơ và các món cướp bóc được, một lượng dư thừa từ tài khoản “Max Helliger” đủ đê chất đầy ba tủ sắt khổng lồ tại chi nhánh Frankfurt của Ngân hàng Nhà nước.




Các quản trị viên ngân hàng có biết nguồn gốc của “tài khoản” này không? Quản trị viên Phòng Đá quý của Ngân hàng Nhà nước khai với Tòa án Nürnberg rằng ông và các cộng sự nhận thấy là nhiều đợt giao hàng đến từ Lublin và Auschwitz.
Tất cả chúng tôi biết rằng những nơi này là vị trí của các trại tập trung. Vàng bắt đầu xuất hiện từ đợt giao hàng lần thứ mười vào tháng 11/1943. Số lượng vàng trám răng là lớn lao một cách bất thường.
Oswald Pohl, người đứng đầu WVHA và phụ trách các giao dịch, nhấn mạnh rằng TS. Funk cùng các quan chức và giám đốc của Ngân hàng Nhà nước biết rất rõ nguồn gốc các món vật họ cố tìm cách mang đi cầm cố.
Đội Đặc nhiệm
Đội Đặc nhiệm (Đức ngữ: Einsatzgruppen): gồm bốn đội bán quân sự (A, B, C và D) gồm quy tụ Gestapo, nhân viên SS… được tuyển chọn đặc biệt, liên quan đến việc sát hại người Do Thái và chính ủy Liên Xô, các dân tộc Slav… ở Đông Âu.
Ban đầu, Himmler và Heydrich tổ chức các Đội Đặc nhiệm để đi theo Quân đội Đức tiến vào Ba Lan năm 1939, và ở đây họ bắt giữ người Do Thái và đưa vào những khu biệt lập. Đến chiến dịch đánh Liên Xô, theo sự thỏa thuận với Quân đội Đức các Đội Đặc nhiệm đi theo để thực hiện bước đầu của “giải pháp cuối cùng,” tức là thủ tiêu. Việc sát hại tập thể người Do Thái ở Liên Xô và Ba Lan do các Đội Đặc nhiệm đảm trách, gây nên cái chết cho khoảng 750.000 người.
Số phận của vài chỉ huy SS
Rudolf Diels là mục tiêu trong vụ thanh trừng đẫm máu vì Quốc xã muốn giết người bịt miệng sau vụ dàn cảnh đốt Tòa nhà Nghị viện, nhưng ông trốn thoát được. Sau chiến tranh, ông không bị truy tố vì chỉ làm chỉ huy trưởng Gestapo trong thời gian ngắn ban đầu, lúc Gestapo chưa phạm tội ác chiến tranh. Nhưng ông được Tòa án Nürnberg gọi ra làm nhân chứng trong các phiên xử.


Adolf Eichmann bị Do Thái bắt năm 1960 ở Argentina, dẫn về Do Thái bị tuyên án tử hình, nhận thi hành án bằng cách treo cổ năm 1962.
Karl Hermann Frank, Đại tướng SS, Thủ lĩnh SS và Cảnh sát Böhmen và Mähren, bị Tiệp Khắc xử treo cổ công khai năm 1946.
Richard Gluecks, Thượng tướng Waffen-SS, Tổng Thanh tra các trại tập trung, tự tử sau khi đầu hàng năm 1945 để tránh bị đưa ra tòa.
Hermann Göring bị Tòa án Nürnberg tuyên án tử hình năm 1946. Hai tiếng đồng hồ trước khi đến lượt bị thi hành án bằng cách treo cổ, Göring nuốt thuốc độc trước đấy đã được lén đưa vào nhà tù.
Karl-August Hanke,, Lãnh tụ SS thay thế Himmler (1945), bị quân kháng chiến Ba Lan hoặc Tiệp Khắc bắt và xử tử năm 1945.
August Heißmeyer, Đại tướng cấp cao SS, Trưởng ban Giáo dục của SS, bị án tù 18 tháng (1948), bị Tòa án Bài trừ Quốc xã tuyên thêm án tù 3 năm (1950), qua đời năm 1979.
Reinhard Heydrich bị quân kháng chiến Tiệp Khắc sát hại năm 1942.
Heinrich Himmler sau chiến tranh tìm cách liên hệ với Đồng minh để đàm phán hòa bình nhưng bị từ chối, chạy trốn nhưng vẫn bị quân Anh bắt, tự tử năm 1945 trước khi bị xét xử.
Rudolf Höß, Trung tá SS, chỉ huy trại tập trung Auschwitz, bị Ba Lan xử tử hình1947.
Friedrich Jeckeln, Đại tướng SS, Thủ lĩnh SS và Cảnh sát ở Liên Xô, năm 1946 bị Liên Xô đưa ra xét xử rồi thi hành án tử hình trong vòng một ngày.
Ernst Kaltenbrunner, Đại tướng SS, Giám đốc Cơ quan RSHA (1942-1945), Thủ lĩnh SS và Cảnh sát Donau, viên chức SS cao cấp nhất sống sót sau chiến tranh, năm 1946 bị Tòa án Nürnberg xử tử hình.


Josef Kramer, Đại úy SS, chỉ huy trại tập trung Bergen-Belsen, năm 1945 bị xử tử hình.
Heinrich Müller, Đại tướng SS, giữ vai trò quan trọng trong việc thủ tiêu người Do Thái, chỉ huy việc truy lùng nhóm âm mưu ám sát Hitler ngày 20 tháng 7, 1944 do Claus von Stauffenberg thực hiện, mất tung tích sau khi Hitler tự sát ngày 30 tháng 4, 1945.
Otto Ohlendorf, Thượng tướng SS, Trưởng phòng Amt III (Tình báo nội bộ) thuộc RSHA, chỉ huy Đội Đặc nhiệm D ở Ukraina và Crimea, bị Tòa án Nürnberg xử tử hình năm 1951.
Oswald Pohl, Đại tướng Waffen-SS, Cục trưởng Kinh tế và Hành chính của SS (WVHA), tham gia thủ tiêu người Do Thái trong các trại tập trung, bị Tòa án Nürnberg xử tử hình năm 1951.
Walther Schellenberg, Thiếu tướng SS, Phó Giám đốc RSHA (1939-1942), thay thế Canaris làm Giám đốc Cục Quân báo (1944), bị án 6 năm tù nhưng được trả tự do sớm (1951) vì lý do sức khỏe, qua đời năm 1952.
Alfred Six, Trung tướng SS, lên kế hoạch khủng bố và đàn áp chính trị ở Anh nếu Đức đổ bộ được lên đất Anh, bị Tòa án Nürnberg xử 20 năm tù (1948), được giảm án còn 15 năm (1951), qua đời năm 1975.
Jürgen Stroop, Thượng tướng SS, Thủ lĩnh SS và Cảnh sát Warszawa, Ba Lan, năm 1952 bị Ba Lan xử tử hình.
Phán quyết của Tòa án Nürnberg
Tòa án Nürnberg tuyên tổ chức SS (ngoại trừ SS Kỵ binh) phạm tội ác chiến tranh.
Tòa tuyên là phạm nhân… những người được chính thức chấp nhận là thành viên của SS…, tiếp tục là thành viên với sự hiểu biết là tổ chức này được sử dụng để thi hành những công tác được tuyên là tội ác… ngoại trừ những người bị đưa vào làm thành viên mà không có chọn lựa gì khác hoặc không thực hiện những công tác tội ác ấy…





Bốn sư đoàn SS nổi tiếng nhất:

Một trong những đơn vị đầu tiên của quân Waffen là sư đoàn số 1 Leibstandarte SS Adolf Hitler . Lực lượng này bắt nguồn từ lực lượng cận vệ của Hitler. Một số đơn vị canh gác Berlin và Berchtesgaden, nhưng sư đoàn này gần như không ở Berlin trong giai đoạn 1939-1945.

[size=5]Sư đoàn 2 panzer Das Reich[/size] là một trong những sư đoàn cơ giới mạnh mẽ nhất của Waffen. Nguyên thuỷ của nó là đơn vị SS đặc biệt SS-Verfungstruppen (special purpose troops).

[size=5]Sư đoàn 3 Totenkopf[/size]


[size=3]bộ binh sư đoàn 3[/size]

[size=2][/size]

[size=2]Biểu tượng sư đoàn 3 SS. Totenkopf
[/size]
[size=4]Sư đoàn Wiking[/size]







Ảnh này đã được co lại cho phù hợp. Nhấn vào đây để xem ảnh với cỡ gốc. Ảnh gốc có cỡ %1%2. (http://vietyo.com)


[size=4]
[/size]
Ngoài ra còn nhiều nữa nhưng không quan trọng lắm.

Mục tiêu của Waffen SS là gì: "…The Gods of the new Germany will be the SS"
- RFSS Himmler, 1931.

Một trong những tiêu chuẩn vào Waffen SS là: cao 1m80 trở lên, thuần chủng Đức, tham gia các chiến trường








Trong những nhân vật nổi bật của Waffen SS có Kurt "Panzer" Meyer và hauptsturmfuhrer ( thiếu tá)Michael Wittman:






Những gì còn lại của xe Tiger 007 của Wittmann sau trận *ng độ với xe tăng và máy bay quân đồng minh ngày 8/8/1944 tại Gaumesnil, Normandy, Pháp. Cả 5 ngươì trong xe đêù tử vong khi xe tăng bị nổ (sức nổ đã thổi bay tháp xe )

Khi quân phát xít xâm lược Liên Xô, obersturmfuhrer(đại uý) Kurt Meyer mới chỉ là chỉ huy tiểu đoàn trinh sát của sư đoàn 1 SS Leibstandarte AH, chiến công lớn nhất của ông đã cho ông huân chương chư thập sắt và cái tên hiệu "Panzer" (Xe tăng) là trận đánh Tarnopol ở Ukraina khi một mình ông dẫn tiểu đoàn trinh sát của mình đi trước sư đoàn đến hơn 100 cây số trong đất Liên Xô! Vì vậy đã giúp cho quân phát xít bao vây được toàn bộ mặt trận Ukraina của hồng quân. sau đó ông ta đã tham gia hâù hết các trận chiến trên mặt trận phía đông . Năm 43, ông được điêù sang Pháp chỉ huy một trung đoàn của sư đoàn SS 12 Hitler Jungend mới lâp. Khi quân đồng minh đổ bộ xuống Normandy, ngay ngày đâù tiên, viên sư đoàn trưởng của sư 12 SS bị tử trận, standartenfuher (đại tá)"Panzer" Meyer được phong sư đoàn trưởng . Nhờ hầu như một mình sư đoàn của ông, quân Đức đã chặn đứng mũi tiến công của toàn bộ quân Anh ở xung quanh thành phố Caen của Pháp . Theo dự định ban đâù của bộ chỉ huy Anh, thành phố Caen sẽ được giải phóng ngay trong ngày đâù tiên của cuộc đổ bộ nhưng trên thực tế, đống gạch vụn Caen chỉ được giải phóng gần 2 tháng sau, khi trên gần 20000 quân SS của sư đoàn chỉ còn vài trăm mống . Panzer Meyer ở trong số sống sót ít ỏi này và khi chiến tranh kết thúc ông ta vâñ ở cõi ngươì sống.





Ảnh này đã được co lại cho phù hợp. Nhấn vào đây để xem ảnh với cỡ gốc. Ảnh gốc có cỡ %1%2. (http://vietyo.com)


Ảnh này đã được co lại cho phù hợp. Nhấn vào đây để xem ảnh với cỡ gốc. (http://vietyo.com)


Michael Wittman có lẽ là người đã bắn cháy được nhiêù xe tăng nhất từ trước tới nay. Từ Ba Lan qua Pháp tới vùng Nam Tư, Hy Lạp rồi mặt trận phía đông đến mặt trận Ý và mặt trận phía tây, ông ta chính thức đã hạ được 376 xe tăng địch (sự thật có lẽ ông ta đã phá được hơn 400 chiếc nhưng không xác định được hết) . Trận đánh ở Villers Bocage gần Caen là một trậ nổi bật nhất của ông ta. Ngày 12/6/1944, sau khi thất bại trong việc tấn côn Caen, quân đội Anh thay đổi chiến thuật, họ định vòng qua cái chốt này qua thị trấn Villers Boccage và vây quân tử thủ ở Caen . Tình báo Anh cho biết trước mặt họ chỉ có sư đoàn Panzerlehr gần kiệt quệ sau mấy ngày chiến đấu, họ cho tiến lên sư đoàn tăng tinh nhuệ số 7 "Desert rats" vưà mới đổ bộ . Không may thay sư đoàn Anh đã chạm trán phải 5 xe Tiger của Wittman trong khi họ đang di chuyển trên đường gần Villers Boccagẹ Xe Tiger có lẽ là xe tăng khủng khiếp nhất của thế chiến thư 2, khẩu 88 ly của nó có thể hạ bắt cứ xe tăng địch nào và áo giáp thép của nó có thể làm vô hiệu hoá hâù hết các súng chống tăng của đich. Vì vậy nhưñg xe Tiger của Wittman đã "tàn sát" xe tăng và bọc thép của Anh, riêng Witman đã ăn hơn 30 xe trong vòng vài giờ . Cuộc tấn công đã bị chặn đứng vì 5 xe Tiger. Nhưng Wittman cuñg không hưởng được lâu chiến thắng này, vài tuần sau ông ta đã chết cháy trong xe Tiger của ông cách Villers Boccage có vài cây số trong khi *ng độ với xe tăng của Canada .



Sáng ngày 10/6/1944, sturmbannfuhrer (trung tá) Adolf Dickmann dẫn đại đội 3 trung đoàn 4 bộ binh trợ tăng "Der Fuhrer", sư đoàn 2 SS tiến vào làng Oradour-sur-Glane ở miền trung nước Pháp. Từ 4 ngày nay, quân đồng minh đang đổ bộ ở Normandy, và sư đoàn 2 SS đang được chuyển lên tiền tuyến.
Đây có lẽ là lần đầu tiên lính đức vào làng này nên dân làng ai ai cũng náo nức ra xem. Việc đầu tiên của những người lính SS là tập trung tất cả 648 dân làng lại một chỗ, chỉ có em nhỏ Godfrin nhảy ra ngoài vườn mới chạy trốn được. Người ta bắt đầu đồn rằng lính SS muốn kiểm tra giấy tờ để tìm bắt du kích. Vào buổi trưa, sau khi dân làng được tập trung đầy đủ, quân đức bắt đầu chia họ ra làm 2 nhóm đàn ông và đàn bà, trẻ con . Nhóm thứ 2 (khoảng 400 người ) được đưa vào nhà thờ của làng. Trong khi nhóm đàn ông được đưa ra chỗ những kho rơm, ở đây họ thấy có nhiều khẩu đại liên đã được bắc giàn.
Vào 4 giờ chiều, trong vòng vài phút toàn bộ đàn ông (trừ 5 người sống sót ) đã bị hạ sát bằng súng máy, sau đó lính SS bắt đâù đi "thanh toán" số bị thương.
Vài giờ sau đến lượt nhóm đàn bà và trẻ em trong nhà thờ. Bọn SS bắt đầu ném bom hoá học vào trong nhà thờ . Sau đó chúng kết thúc bằng tiểu liên và cuối cùng chúng phóng hoả nhà thờ . Trong số 400 người trong nhà thờ duy nhất chỉ có bà Rouffanche sống sót .
Như vậy là trong vài giờ đồng hồ 642 người thường dân vô tội đã bị tàn sát một cách hết sức dã man. Vụ tàn sát ở Oradour này là vụ tàn sát khủng khiếp nhất ở mặt trận phía tây, nhưng chúng ta nên biết ở mặt trận phía đông, những vụ như Oradour có tới hàng ngàn ! sturmbannfuhrer Dickmann và phần lớn nhưñg tên đao phủ SS này đều đã tử trận ở Normandy trong vòng 2 tháng sau đó nên đã thoát khỏi toà án tội phạm chiến tranh.









Ảnh này đã được co lại cho phù hợp. Nhấn vào đây để xem ảnh với cỡ gốc. Ảnh gốc có cỡ %1%2. (http://vietyo.com)


Ảnh này đã được co lại cho phù hợp. Nhấn vào đây để xem ảnh với cỡ gốc. (http://vietyo.com)


(muốn tìm hiểu thêm về vụ thảm sát này : http://www.dasreich.ca/oradourindex.html






Joachim Peiper (30 tháng 1, 1915 tại Berlin - 13 tháng 7, 1976 tại Traves, Pháp), còn được biết dưới tên Joachim "Jochen" Peiper vì Jochen là tên gọi thân mật cho Joachim, là một sĩ quan và lãnh đạo cao cấp của Waffen-SS (lực lượng vũ trang SS), Đức Quốc Xã. Vào cuối đời binh nghiệp của mình, Peiper là sĩ quan mang quân hàm tương đương với đại tá trung đoàn của quân đội: quân hàm Standartenführer của Waffen-SS, sư đoàn xe tăng SS số 1, Leibstandarte-SS Adolf Hitler.

Năm 1946, trong phiên tòa về cuộc Thảm sát tại Malmédy, Peiper đã bị kết án là tội phạm chiến tranh.

Tiểu sửCha của Peiper là một cựu binh của Thế chiến thứ nhất; ông cũng có hai người anh em: Hans-Hasso và Horst.

Mùa xuân năm 1933 ông gia nhập Hitlerjugend (Thiếu niên Hitler) và ngay từ tháng 10 cùng năm gia nhập lực lượng SS do Heinrich Himmler lãnh đạo. Năm 1934 Peiper làm đơn xin được trở thành học viên sĩ quan SS (tiếng Đức: SS-Offizieranwärter). Ông được nhận vào cái gọi là Trường Junker của lực lượng SS (SS-Junkerschule) tại Braunschweig. Sepp Dietrich đã xem qua hồ sơ của Peiper và cho phép Peiper gia nhập vào trung đoàn cận vệ danh dự SS số 1 "Leibstandarte Adolf Hitler", trung đoàn này sau đó được đổi thành một đơn vị chiến đấu Waffen-SS. Lúc đầu, Peiper làm công việc như một sĩ quan phụ tá của Heinrich Himmler trước khi được thuyên chuyển sang các đơn vị xe tăng khác nhau trong "Leibstandarte Adolf Hitler". Trong lúc còn là phụ tá cho Himmler, Peiper đã gặp và cưới người vợ của mình, Sigurd, và họ đã có ba người con: Hinrich, Elke và Silke. Himmler đặc biệt ưa thích Peiper và đã chú ý đến việc Peiper được thăng tiến lên cấp chỉ huy. Ở tuổi 29, Peiper đã là một đại tá thực thụ trong lực lượng Waffen-SS rất được tôn trọng và là một trong số ít người có được huân chương cao quý nhất trong quân đội phát xít Đức, huân chương Knight''s Cross with Swords được ban tặng bởi chính Adolf Hitler.


Peiper trên chiến trườngPeiper là một người chỉ huy có tài và đã tham gia rất nhiều trận chiến có xe tăng trong Thế chiến thứ hai. Peiper được cấp dưới trung thành tuyệt đối và được xem là một thủ lãnh có sức thu hút. Peiper đã tham gia vào một số trận đánh nổi tiếng trong cuộc chiến, bao gồm cả các trận chiến tại Kursk và Kharkov vào năm 1943 tại mặt trận phía Đông nước Nga. Nổi tiếng nhất trong số đó là Peiper đã chỉ huy đội quân "Kampfgruppe Peiper" (Đội chiến đấu Peiper) của "Leibstandarte Adolf Hitler" (thuộc sư đoàn Panzer số 6 dưới quyền chỉ huy của Sepp Dietrich) trong chiến dịch "Wacht am Rhein". Đội quân này tiến thẳng về ngôi làng La Gleize, nước Bỉ, trước khi bị đẩy lùi lại bởi các lực lượng Mỹ. Peiper bị buộc phải bỏ lại hàng trăm phương tiện vận chuyển tại ngôi làng này, gồm cả 6 xe tăng Tiger II, và quay lại phòng tuyến của Đức với 800 lính bộ binh.

Sau này, Peiper đã bị buộc tội dính líu đến cuộc Thảm sát tại Boves, nhưng ông chưa bao giờ bị xét xử trước tòa về vụ này.

Một lần ở Ý, Peiper đã khám phá ra chính phủ nước Ý đã bắt giữ một nhóm người Do Thái. Peiper đã giải thoát và trao trả tự do cho họ. Một trong số những người Do Thái này là một giáo sĩ (rabbi), người này sao đó đã làm chứng cho lòng nhân từ của Peiper trong suốt thời gian xét xử các tội ác chiến tranh của ông.







Ảnh này đã được co lại cho phù hợp. Nhấn vào đây để xem ảnh với cỡ gốc. Ảnh gốc có cỡ %1%2. (http://vietyo.com)


Ảnh này đã được co lại cho phù hợp. Nhấn vào đây để xem ảnh với cỡ gốc. (http://vietyo.com)


Sau chiến tranh, Peiper cùng với những người dưới quyền của mình bị tố cáo vì tội ác chiến tranh trong cuộc xét xử về vụ án Thảm sát tại Malmédy. Peiper đã xin tòa án chịu hết trách nhiệm nếu như để cho các thuộc hạ của mình được trả tự do, nhưng phiên tòa đã bác bỏ lời đề nghị này. Thiếu tá Harold D. McCown, tiểu đoàn trưởng thuộc trung đoàn số 119, sư đoàn bộ binh số 30 của quân đội Hoa Kỳ đã đứng ra làm chứng trong suốt phiên tòa rằng ông ta đã có một buổi chuyện trò với Peiper. McCown đã nghe các lời đồn về chuyện lính của Peiper bắn tù binh Mỹ và hỏi Peiper về tình trạn an toàn của các binh lính Mỹ. Peiper nói rằng binh lính của McCown không bị bắn; McCown cũng nói rằng ông không có bằng chứng về chuyện tù binh Mỹ bị bắn. Mặc dầu vậy, cũng như nhiều thuộc hạ của mình, Peiper bị buộc là có tội và kết án treo cổ cho đến chết. Sau đó, Peiper yêu cầu thuộc hạ của mình được xử bắn thay vì treo cổ nhưng cũng bị từ chối. Sự thật là, vì nhiều lý do khác nhau đối với bị cáo, người ta mới biết được rằng các lời thú tội của nhiều bị cáo đã bị ép buộc bằng cách chế nhạo hay đánh đập một cách dã man. Nhiều bị cáo trong cuộc thảm sát Melmédy sau đó được trả tự do sau một thời gian ở trong tù, và Peiper trở về với cuộc sống bình thường vào tháng 12 năm 1956, sau 11 năm rưỡi ngồi tù với phần lớn thời gian bị giam một mình.

Sau khi được trao trả tự do, Peiper chưyển đến sống tại Traves, Haute-Saône, nước Pháp, và làm nghề phiên dịch. Sau một loạt những lời đe dọa đến tính mạng của mình, Peiper đã bị giết chết trong một cuộc tấn công bằng súng tại nhà của mình vào ngày 13 tháng 7 năm 1976. Những kẻ tấn công không bao giờ bị đem ra tòa, nhưng người ta cho rằng họ có thể là những người * Pháp.








Ảnh này đã được co lại cho phù hợp. Nhấn vào đây để xem ảnh với cỡ gốc. Ảnh gốc có cỡ %1%2. (http://vietyo.com)




Những câu nói nổi tiếng của Joachim Peiper
"Sau các trận chiến tại Normandy, tôi nhận thấy rằng những người lính trong đơn vị của tôi phần lớn là những người trẻ tuổi và hiếu chiến. Họ đã mất cha mẹ, anh chị em trong các cuộc oanh tạc. Tại Koln, bản thân họ đã phải chứng kiến hàng ngàn người chết sau một trận tấn công dữ dội. Chính lòng căm thù của họ đối với quân địch đã dẫn đến những điều này, và tôi dám thề là tôi sẽ không bao giờ có thể kiểm soát được những tình huống như vậy."
"Hãy thử tượng tượng, bạn được tung hô là người hùng của quốc gia, được hàng triệu con người trong cơn tuyệt vọng tôn thờ bạn, thế rồi chỉ trong vòng sáu tháng sau, bạn bị tuyên án treo cổ cho đến chết."
"Những người lính của tôi là sản phẩm của toàn bộ cuộc chiến này, họ lớn lên trên đường phố của những ngôi làng vung vãi khắp nơi (scattered towns), họ không có được sự giáo dục. Điều duy nhất mà họ biết đó là cầm lấy vũ khí chiến đấu cho Reich. Họ là những người trẻ tuổi với một trái tim cháy bỏng, với nỗi thèm muốn được chiến thắng hay cái chết: đúng hay là sai đó là đất nước của tôi. Ngày hôm nay, khi nhìn thấy những bị cáo đứng sau vành móng ngựa kia, không thể tin được họ là những người từng trong lực lượng Kampfgruppe Peiper. Tất cả những người bạn và chiến hữu ngày nào của tôi đã ra đi. Valhala đang chờ đón tôi (The real outfit is waiting for me in Valhala)."



"[size=4]Lịch sử luôn được viết bởi người chiến thắng, còn lịch sử của những người thuộc phe thất bại thì thuộc những người ngày càng ít đi[/size]"
Không thể thực hiện tác vụ do chủ đề hiện đang ở trạng thái lưu trữ

Chủ đề cùng mục


Lời Ca Khúc Điểm nhanh Hợp âm az Chords up Tin xe nói về xe

Bản quyền bởi VietYO.com v3.0 - Viet Nam Youth Online
Diễn đàn mở của cộng đồng người Việt trẻ online - Liên hệ (info @ vietyo.com)